Chuyển đến nội dung chính

Rau cỏ tươi làm thức ăn cho gà

Nói về tầm quan trọng của rau cỏ tươi, chúng ta hãy nghe kiến giải của đại sư kê Frank Shy (Narragansett) trong cuốn "Modern Breeding of Gamefowl":

"Đứng đầu danh sách về cơ sở vật chất là bãi chăn thả đủ rộng với thật nhiều cỏ xanh tương ứng với quy mô đàn gà. Theo kinh nghiệm của tôi, cỏ “tốt” là thức ăn quan trọng nhất trên đời cho sự phát triển của gà con. Nó giá trị hơn tất cả các loại thức ăn khác gộp lại. Trên thực tế, tôi biết nhiều trường hợp những loại thức ăn xịn nhất cũng không thể bù đắp nổi những khiếm khuyết vì thiếu cỏ tốt.

Xin nhấn mạnh từ cỏ “tốt”. Không phải cỏ nào cũng như nhau. Một số bổ dưỡng hơn số khác. Bổ dưỡng hơn rất nhiều. Một loại cỏ không mọc trên tất cả các loại đất hay ở mọi vùng khác nhau trong nước. Bởi vậy, tôi gợi ý các bạn nên liên hệ với các trường đại học hoặc các cơ quan nông nghiệp ở bang nhà, cho họ biết vấn đề của bạn, và nhờ họ giới thiệu những loại cỏ giàu dinh dưỡng ở địa phương của bạn. Họ có lẽ sẽ cần mẫu đất ở chỗ bạn để phân tích thành phần hóa học, và giới thiệu những loại phân bón nhất định .v.v. Cố gắng làm theo những lời khuyên của họ. Đừng ngại liên hệ. Bạn đã trả phí dịch vụ thông qua tiền đóng thuế của mình vậy hãy tận dụng họ một cách phù hợp. Ngoài ra, rồi bạn sẽ thấy những nơi này rất nhiệt tình cộng tác.

Còn đây là một vấn đề khác. Chất lượng đất của bạn ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cỏ mà bạn trồng. Nhiều khả năng, bãi chăn thả của bạn quá lớn nên bạn thấy không thực tế hoặc quá tốn kém nếu bón phân một cách toàn diện.

Điều này đặc biệt đúng với việc sử dụng phân ủ (compost) như là một phần thuộc chương trình chăm bón của bạn. Theo đó, bạn dành một khoảnh đất riêng, thậm chí chỉ độ năm chục feet vuông [~4.6 m2], và ủ phân. Cố gắng đắp thành đống lớn bằng cỏ vụn và khi khô đi, nó sẽ tạo thành một lớp phủ dày. Tôi chuộng phân ủ và phân bò hơn bất kỳ loại phân hóa học thương mại nào. Cũng bổ sung thêm phân gà lấy từ trại. Rồi theo dõi chất lượng cỏ trong khoảnh đất 50-feet vuông của bạn, và phản ứng của gà trên đó. Dĩ nhiên khoảnh đất càng rộng càng tốt. Đàn gà sẽ xử hết từng ngọn cỏ trong đó trước khi đụng đến cỏ ở nơi khác".

Đại sư chỉ cho ý kiến chỉ đạo thôi, về chi tiết cây gì, chăm bón ra sao thì ông khoán trắng cho nhà nước Mỹ. Bà con ta cũng nên nghe theo lời ông mà đi hỏi các cơ quan nông nghiệp ở địa phương xem chỗ mình nên trồng cây hoặc cỏ gì cho con gà ăn để nó mập mạnh nghen. Trong thời gian chờ đợi, chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem giang hồ có đồn đại thứ gì bổ béo chăng?

1- Rau lấp
Loại cỏ này bà con có đề cập trên diễn đàn nông nghiệp. Miền Bắc trước đây cấy trồng làm thức ăn gia cầm, gia súc. Lý do là vì gà thích ăn mà năng suất lại rất cao chứ hàm lượng protein nghe nói rất thấp.

*Đại từ điển bách khoa ghi nhận như sau “Rau lấp (tên khoa học Aneilema keisak) còn gọi là rau thài lài nước, rau ngấp ngó, họ Thài lài (Commelinaceae). Thân mềm, xốp, bò lan trên mặt ruộng, thân có đốt phân thành nhiều nhánh, đâm rễ ở các đốt già. Lá hình lưỡi mác hẹp, không có cuống, màu hơi tía. Rau lấp ưa ẩm, chịu lạnh; nhân giống vô tính; phân bố ở Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam... Ở Việt Nam, rau lấp mọc hoang ở một số tỉnh vùng núi phía bắc và được trồng nhiều ở đồng bằng Bắc Bộ làm thức ăn xanh trong vụ đông. Rau lấp phát triển tốt từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau ở các tỉnh phía bắc; khi được chăm bón tốt, năng suất chất xanh đạt 200 - 300 tấn/ha/vụ. Rau lấp cũng được phát triển khá tốt ở vùng duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên. Rau lấp giàu vitamin, protein (?) và chất khoáng. Được coi là thức ăn xanh có giá trị cho lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng trong vụ đông”.

*Tên khoa học mới của rau lấp là Murdannia keisak.

*Cây ưa vùng ẩm ướt, nước sâm sấp, thích hợp trồng ở vùng ven bờ ao, hồ, kênh dẫn nước. Các nhà vườn ở miền Tây thường có kênh dẫn nước, phục vụ tưới tiêu. Ví dụ ở dưới là vườn nhà bạn Nghia_IT, ven bờ kênh có thể trồng rau lấp.


*Rau lấp trông rất giống với rau trai (dễ nhầm lẫn), thực ra có hai loại rau trai là rau trai thường hay cỏ chân vịt (Commelina communis) và rau trai hạt nhám hay thài lài trắng (Commelina diffusa) nhưng lá to hơn và bông xanh tím thay vì lá nhỏ và bông trắng phớt hồng ở rau lấp. Nghe nói các thứ này gà không chuộng.

*Cây này bà con miền Bắc hiện vẫn trồng để nuôi cá trắm cỏ. Nhưng trên mạng chẳng có tấm hình nào, mọi hình ảnh đều lấy từ các trang web của nước ngoài. Các bạn chịu khó tìm vậy, nếu tìm không ra thì thay bằng rau muống, nghe nói dinh dưỡng tương đương, chỉ thua về năng suất thôi, nhưng bù lại người ăn được!





2- Cây chè đại
Cây chè đại Trichanthera gigantea có hàm lượng protein 17.9% (12.0 - 21.7%), trọng lượng khô 17.5% và thích nghi tốt với nhiều vùng khí hậu khác nhau. Lưu ý rằng nhu cầu protein của gà từ 16-20% nên nếu được chăm bón tốt thì cây chè đại đáp ứng... vừa đủ (tin rất không vui đối với các công ty chế biến thức ăn gia cầm). Cây có thể trồng thâm canh hoặc xen canh trong vườn cây ăn trái, cây công nghiệp như tiêu, điều. Lá cây có thể dùng tươi hay phơi khô, xắt nhỏ hoặc xay thành bột để trữ và trộn vào cám cho gà ăn dần. Sau đây là phần giới thiệu của kỹ sư Đậu Thế Năm ở Viện KHKT Nông Lâm Nghiệp Tây Nguyên:

"Cây chè đại thuộc họ Acanthaceae, họ phụ Ancanthoideae, bộ Trichanthera, chi Hera, loài Trichanthera gigantea. Cây thân bụi, tán tròn, nhánh bậc hai, lá cánh quạt dài đến 26 cm và rộng 14 cm, đỉnh nhọn, bản hẹp, nở hoa theo chu kỳ.

Cây chè đại là loài mới, làm thức ăn gia súc được nhập vào Việt Nam năm 1993 từ Colombia, đây là loại cây năng suất khá cao, rất giàu protein, khoáng và vitamin. Hiện nay cây chè đại đã được trồng ở miền Tây Nam Bộ và vùng núi phía Bắc nước ta để làm thức ăn cho gia súc và cá. Kết quả cho thấy việc sử dụng cây chè đại làm thức ăn gia súc đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt trong chăn nuôi. 

Cây mọc nhiều ở vùng núi Colombia, dọc theo các dòng suối và khu vực đầm lầy Costa Rica tới phía Bắc Nam Mỹ. Đây là loài cây làm thức ăn gia súc, thích nghi với nhiều điều kiện khí hậu khác nhau. Chúng có thể sống cao độ trong khoảng 0 – 2000m (Murgueitio, 1989), 800 - 1600m (Acero 1985) và từ 500 - 1800m trên mực nước biển (Jaramillo & Correcdor 1989). Đối với vùng có khí hậu ẩm ướt, lượng mưa hằng năm khoảng 1000- 2800mm (Jaramillo & Correcdor 1989) cây vẫn có khả năng sinh sống, ngay cả khi lượng mưa lên đến 5000 - 8000mm/năm (Murgueitio1989). Cây chè đại phát triển được trong điều kiện đất acid [phèn], kém màu mỡ nhưng thoát nước tốt.

Cây chè đại Trichanthera gigantea có thể thu hoạch lần đầu tiên ở 4 - 6 tháng tuổi, năng suất 15,6 và 16,74 tấn/ha (thân tươi) tương đương 40000 cây/ha (khoảng cách 0,5m x 0,5m), sau 1,5 - 3 tháng thu hoạch một lần năng suất 17 tấn/ha/1 lần cắt (khoảng cách 0,75 cm x 0,75 cm). Tổng sản lượng (lá tươi và thân xanh) lên đến 53 tấn/ha/năm. Cây chè đại có khả năng tái sinh mạnh mẽ, ngay cả trong điều kiện thu hoạch nhiều lần mà không cung cấp phân bón. Điều này cho thấy quá trình tổng hợp ni-tơ có thể xảy ra ở phần rễ thông qua hoạt động của Mycorrhiza hay những vi sinh vật khác. Cây chè đại đáp ứng tốt với ni-tơ của phân u-rê lên đến 240 kg ni-tơ/ha/năm.

Hàm lượng protein chứa bên trong lá thay đổi từ 15 - 18% và hầu hết là protein thật. Hàm lượng can-xi đặc biệt cao so với các loại cây thức ăn khác. Thí nghiệm kiểm tra các chất kháng dinh dưỡng, Rosales & Galindo (1987) chứng minh rằng trong cây chè đại không có các chất alkaloid hay tannin, hàm lượng saponin và steroid thấp.

Kết quả thử nghiệm của Khoa chăn nuôi Trường ĐH Cần Thơ cho thấy: Việc sử dụng lá cây chè đại tươi dưới dạng bột cỏ cho gia súc, gia cầm và cá mang lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao hơn. Đặc biệt, chất lượng thịt, trứng vàng, thơm ngon hơn so với lô đối chứng không sử dụng lá cây chè đại.

Nhiều hộ nông dân ở Cần Thơ đã và đang sử dụng lá cây chè đại tươi bổ sung vào khẩu phần thức ăn cho heo: 4,2kg/con/ngày với heo nái và 3,6kg/con/ngày với heo thịt, tương đương 110 – 130g protein/con/ngày cho kết quả tốt: Heo nái sinh sản tốt, heo thịt tăng trọng cao. Gà, vịt, cút đẻ có bổ sung lá cây chè đại vào khẩu phần thức ăn cũng cho kết quả tốt: đẻ trứng nhiều hơn, chất lượng trứng tốt hơn".






3- Cây chùm ngây
Cây chùm ngây Moringa oleifera (tên đồng nghĩa Moringa pterygosperma) là cây thân gỗ nhỏ, sinh sống ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới trong vùng Nam Á thuộc bang Kerala của Ấn Độ. Loài cây này đã có lịch sử trồng trọt tới hơn 4.000 năm. Nó được trồng phổ biến ở Châu Á và Châu Phi. Nó được người Ấn Độ trân trọng đặt tên là cây Độ Sinh (Tree of Life). Các nhà dược học, các nhà thực vật học, dựa vào hàm lượng dinh dưỡng và nguồn dược liệu quí hiếm được kiểm nghiệm, đã không ngần ngại đặt tên cho nó là cây Thần Diệu (Miracle Tree).

Chùm ngây đã hiện diện ở Việt Nam ta từ lâu đời (mọc hoang nhiều nhất ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận) nhưng trong vài chục năm trở lại đây người ta nghiên cứu thấy nó có nhiều tác dụng đặc biệt nên tưởng là cây mới du nhập. Gần đây phong trào trồng và sử dụng cây này đang phát triển rầm rộ nên kiếm giống cũng chẳng khó. Lá cây có hàm lượng protein 24.3% (17.1 - 29.7%), trọng lượng khô 26.2%, cao tương đương với một số loại cỏ làm thức ăn cho bò sữa. Lý do cây này được giới thiệu bởi nó đáp ứng được hai mục đích và tận dụng trồng ở hàng rào. Sư kê Philippines Larry Locara (SuperMax) từng sử dụng lá chùm ngây như là thảo dược phòng bệnh cho gà nhưng nếu trồng được nhiều thì lấy cho gà ăn dặm cũng tốt!






4- Bèo hoa dâu
Theo Vi.Wikipedia “Bèo hoa dâu là tên gọi chung của họ Azollaceae, độc chi Azolla bao gồm 7 loài thực vật sống trên mặt nước ở các ao, hồ nước ngọt, có lá nhỏ hình xuyến màu xanh lá cây. Rễ của loài này luôn ngâm trong nước. Chúng cộng sinh với vi khuẩn lam Anabaena azollae, để chuyển hóa ni-tơ từ không khí. Bèo hoa dâu được dùng ở một số nơi làm thức ăn cho lợn. Nhờ khả năng chuyển hóa ni-tơ, bèo hoa dâu đã tạo nên một cách mạng nông nghiệp trong trồng lúa nước ở châu Á. Khi ruộng lúa ngập nước, bèo hoa dâu được phát triển để hấp thu ni-tơ. Khi ruộng lúa cạn, bèo chết để lại nguồn phân đạm [protein] tự nhiên (là loại phân xanh).

Bèo hoa dâu là loài thực vật đầu tiên được con người mang vào vũ trụ (do Phạm Tuân đem theo để thí nghiệm trên vũ trụ. Nó có thể là thực phẩm trên vũ trụ trong tương lai bởi vì bèo hoa dâu chỉ cần nước và không khí để tạo ra chất đạm (loại dưỡng chất cần thiết cho cuộc sống). Ứng dụng của bèo trong đời sống là khá phổ biến”.

Bèo hoa dâu chứa 20.6% đạm (13.9 - 28.1%), trọng lượng khô 6.7% và được nhiều nơi trên thế giới trồng trọt để dùng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm! Vấn đề của các loại bèo là tỷ lệ trọng lượng khô khá thấp, khoảng 6-8%.







5- Cỏ linh lăng
Cỏ linh lăng Medicago sativa là loài cây thuộc họ Đậu Fabaceae. [U]Hàm lượng protein cao 18.2% (15.8 -25.9%), trọng lượng khô cực cao 89.4% (thay đổi tùy theo mùa và tần suất thu hoạch) khiến nó rất thích hợp làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Sử sách ghi nhận nó được sử dụng tại châu Á khoảng năm 700 trước công nguyên, có lẽ ban đầu được trồng tại Iran, sau đó đưa vào châu Âu rồi châu Mỹ. 

Giống như các loài họ Đậu khác, mắt rễ của chúng có chứa vi khuẩn Sinorhizobium meliloti với khả năng cố định đạm (fix nitrogen), và nó được sử dụng như là loại thức ăn gia súc hiệu quả cao, giàu protein mà ít phụ thuộc vào lượng ni-tơ lấy từ đất. Cỏ linh lăng là một trong số ít thực vật có sự tự đầu độc (autotoxicity). Tức hạt cỏ sẽ khó nảy mầm trong khu vực vốn đã có cỏ linh lăng. Vì vậy, đồng cỏ linh lăng nên được luân canh (trồng loại cây khác như bắp và lúa mì) trước khi tái gieo hạt.

Theo thông tin trên mạng, cây này chịu úng kém, dễ bị thối rễ. Côn trùng cũng tấn công mạnh vì nó... ngon. Nó cũng đòi hỏi phải có chế độ chăm bón thích hợp bằng phân hữu cơ hay hóa học. Dẫu có một số thảo luận nhưng dường như chưa mấy ai ở ta trồng thành công loại cỏ này khi áp dụng vào chăn nuôi.





6- Rau dền
Theo Vi.Wikipedia “Cây dền được cho là có nguồn gốc từ Trung và Nam Mỹ nhưng khoảng 60 loài với khoảng 400 giống của nó hiện diện khắp nơi trên thế giới, cả vùng khí hậu ôn đới lẫn nhiệt đới. Ở Việt Nam, rau dền thường thấy là dền đỏ (dền tía - Amaranthus tricolor), dền cơm (dền trắng - Amaranthus viridis) làm rau ăn; dền gai (Amaranthus spinosus) mọc hoang dại”. Theo Wikipedia thì hàm lượng protein của rau dền là 14%. Rau dền là nguồn đạm không gluten (có trong các loại hạt) dành cho người mẫn cảm với chất này. Cây này được chọn vì nó quá dễ trồng và phát tán nhanh.





7- Cây khoai môn
Theo Vi.Wikipedia “Khoai môn Colocasia esculenta là loài cây nhiệt đới được trồng để lấy củ và cuống lá. Đây là một trong những loài cây đầu tiên được con người thuần hóa. Khoai môn có nhiều giống khác nhau gồm: khoai môn, khoai sọ và khoai nước.

Khoai môn có thể là loài bản địa của vùng đất ẩm thấp thuộc Malaysia. Dường như loài này được trồng tại các vùng nhiệt đới ẩm của Ấn Độ từ hơn 5000 năm trước công nguyên do di thực từ Malaysia, sau đó đến Ai Cập cổ đại. Tại Australia, Colocasia esculenta var. aquatilis là loài bản địa thuộc vùng Kimberley, Tây Australia; Colocasia esculenta var. esculenta giờ cũng trở thành giống hoang dại tại một số bang ở Australia.

Cây khoai môn được trồng chủ yếu để lấy củ và cuống lá. Ở dạng tươi, loài cây này có độc do chứa calcium oxalate và các tinh thể hình kim trong tế bào thực vật có thể gây ngứa. Tuy nhiên, khi được luộc hoặc ngâm trong nước lạnh qua đêm thì độc tố sẽ bị phá hủy”.

Trong khi củ khoai môn chứa nhiều tinh bột và chẳng có mấy protein thì [U]hàm lượng chất này trong lá và cuống lại cao 20.5% (15.5 - 25.7%), trọng lượng khô 12%. Các thử nghiệm cho thấy không nên dùng quá 10% lá khoai môn (Feedipedia).





8- Rau ngót nhật
Theo thông tin trên mạng, rau ngót nhật có tên khoa học là Asystasia gangetica (Ganges primrose, Chinese violet), các trang web Việt gọi là "Biển hoa sông Hằng" hoặc "Thập vạn thác". Nhìn giống lá diễn làm thuốc nên người ta nhầm lẫn (các tên lá diễn, rau diễn, cây gan heo, Dicliptera chinensis, đều không chính xác). Cây này có thể đã di thực vào nước ta từ lâu hoặc là loài bản địa không chừng nhưng không có tên cho tới gần đây được nhập vào làm rau ăn mới có các tên tự đặt như ngót nhật, ngót thái, ngót LHQ.

Cây có lẽ được nhập khẩu từ Nhật mặc dù có thông tin nói rằng cây này mọc dại từ Huế đến Khánh Hòa, hàm lượng protein 3.7%. Hiện nay, nhiều người ở thành phố đang trồng để lấy rau xanh ăn vì nó quá dễ trồng, ngắt cành tuốt lá xong cắm xuống lại mọc ào ào, tăng trưởng mạnh lấn át cả cỏ, lá mềm ngọt có lẽ hợp khẩu vị của mấy cha nội gà vịt. Có hai loại là bông tím và bông trắng, nhớ ngắt ngọn nấu canh ăn liền chớ lỡ để cây ra hoa thì không đành vì... quá đẹp!






9- Cây lục bình
Cây lục bình Eichhornia crassipes (còn gọi là lộc bình, bèo tây hay bèo Nhật Bản, water hyacinth) xuất xứ từ Nam Mỹ, du nhập Việt Nam khoảng năm 1905, do đó mới có tên bèo tây. Lục bình sinh sản rất nhanh nên dễ làm nghẽn ao hồ, kênh rạch. Cây mẹ có thể nảy cây con, tăng gấp đôi dân số sau mỗi 2 tuần. Cây sống ở cả trên cạn lẫn dưới nước.

Thành phần dinh dưỡng của lục bình hầu như phụ thuộc vào chất lượng nước, nơi mà nó sinh sống. Hàm lượng protein cao 18.3% (13.1 – 34.9%), trọng lượng khô 11.3%, chủ yếu tập trung ở lá non. Nhưng như các loài thủy sinh khác, trọng lượng khô của lục bình lại thấp, chỉ chiếm khoảng 10%. Bà con vùng sông nước có một tập quán lạc hậu là vứt xác động vật chết xuống kênh rạch khiến không chỉ lục bình mà tất cả các loài thực vật nổi đều có thể mang mầm bệnh. Việc khai thác lục bình tự nhiên làm thức ăn cho gà tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nếu tập quán này thay đổi thì lục bình sẽ trở thành nguồn rau xanh dồi dào cho gà và vật nuôi. Hiện tại, lục bình trồng làm thức ăn cho gà phải tách nuôi riêng trong ao nhà (hình trong ví dụ dưới đây lấy từ tài khoản facebook của Chiến Bình Tân). Các thử nghiệm sử dụng lục bình với số lượng lớn làm thức ăn cho gà đều cho kết quả tiêu cực. Chỉ nên dùng với số lượng nhỏ (Feedipedia.org).





10- Cây keo dậu
Keo dậu Leucaena leucocephala, còn gọi là keo giậu, táo nhơn, bọ chét, bình linh, keo giun, keo cuba (? một số người dùng tên này, dường như có sự nhầm lẫn nào đó) là loài cây thân gỗ nhỏ, thuộc họ đậu Fabaceae, xuất xứ từ Trung Mỹ. Cây này được chọn vì đặc điểm chịu hạn tốt, cố định đạm và sinh trưởng cực nhanh. Hàm lượng đạm 23.3% (14.2 - 33.3%), trọng lượng khô 29.9%. Ở Việt Nam, cây thường được trồng làm hàng rào nên người ta gọi là keo dậu. Quả, hạt và lá có thể dùng làm thức ăn cho gia cầm. Mặc dù rất bổ dưỡng nhưng cây này chứa chất độc, không nên dùng lá tươi quá 5% (Feedipedia.org).




11- Cây lục lạc sợi
Cây lục lạc sợi Crotalaria juncea, còn gọi là cây gai dầu, sunn hemp, là cây họ đậu Fabaceae, có nguồn gốc từ Ấn Độ, hiện nay được trồng làm thức ăn cho vật nuôi ở khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Hàm lượng đạm 30%, trọng lượng khô 15% (dinh dưỡng của hạt rất cao, đạm 41% và trọng lượng khô 92.6%). Hạt và vỏ đôi khi có độc nên cần loại bỏ trước khi cho ăn (Feedipedia.org).




Ngoài các loại thực vật kể trên, các loại rau mà người ăn được thì gà cũng xơi được. Ngoài ra còn có một số loại lá cây và hạt mà người ta tận dụng để nuôi gà: 

*Rau muống (Ipomoea aquatica, water spinach) có 21.4% đạm (14.1 - 26.4%), trọng lượng khô 13.6%.
*Rau lang (Ipomoea batatas, sweet potato) có 16.5% đạm (8.2 - 24.2%), trọng lượng khô 13%.
*Bèo tấm (Lemna minor, duckweed) có 29.1% đạm (24.9 - 38.6%), trọng lượng khô 5.6%.
*Bèo tai chuột (Salvinia sp.) là các loài có nguồn gốc từ châu Mỹ, Vi.Wikipedia ghi nhận có 3 loài ở nước ta gồm S. cucullata (bèo ong, bèo tai chuột), S. natans (bèo vảy ốc) và S. molesta(bèo tai chuột lớn). Bèo tai chuột lớn S. molesta có hàm lượng đạm 12.4% (9.5 - 15.2%), trọng lượng khô 7.7%. Dinh dưỡng không có gì đặc sắc nhưng tốc độ sinh sản của bèo tai chuột là ghê hồn!
*So đũa Sesbania grandiflora có 25.5% đạm (18.3 - 29.6%), trọng lượng khô 17.3%. Mặc dù rất bổ dưỡng nhưng thử nghiệm dùng cây này làm thức ăn cho gia cầm cho kết quả tiêu cực. Tóm lại khong nên dùng (Feedipedia.org).
*Cây rút dại Aeschynomene aspera (còn gọi là rút nhám, điền ma nhám) là một loài thực vật thủy sinh thuộc họ đậu Fabaceae. Cây bản địa ở Việt Nam và các nước vùng Nam Á, mọc ở địa bàn đất trũng, ven ao hồ, ruộng ngập kể cả vùng nước lợ. Ruột cây rút nhám rất xốp và nhẹ, có tính cách nhiệt nên được dùng làm cốt mũ và nón, nhất là loại nón thuộc địa mà tiếng Việt thường gọi là nón cối. Trên mạng hiện có người rao bán cây rút Ấn Aeschynomene indica (Indian jointvetch). Hiện chưa thấy nghiên cứu nào về dinh dưỡng của cả rút dại lẫn rút Ấn. Chỉ có cây rút Mỹ Aeschynomene americana (American jointvetch) được xác định hàm lượng đạm từ 20-28% ở lá non và 10-14% ở cành.
*Mắm là các cây ở vùng duyên hải, ngập mặn thuộc chi Avicennia. Lá có thể khai thác làm thức ăn cho vật nuôi.
*Cây bo bo (còn gọi là ý dĩ hoặc cườm thảo) Coix lacryma-jobi là một loài thực vật nhiệt đới thân cao thuộc họ Hòa thảo Poaceae, được trồng để lấy hạt, có nguồn gốc Đông Á nhưng được trồng ở nhiều nơi như là một loại cây một năm. Rất nhiều người nhầm lẫn với "hạt bo bo" thời bao cấp, loại hạt tròn màu trắng ngà hồi đó thật ra là cao lương trắng (sorghum).
*Cao lương là các loài cây thuộc chi Sorghum, họ Hòa thảo Poaceae. Sư kê Larry Locara cho gà ăn hạt này, số còn sót mọc tè le và trở thành món ăn dặm cho gà nhà chứng tỏ nó cũng khá dễ trồng.
*Một số loại thức ăn khác (theo Nghia_IT): bèo tấm, gốc lục bình, rau trai, cỏ chỉ (cỏ gà Cynodon dactylon).

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t

Các loài chim ở Việt Nam

Tên Việt Nam Cu rốc đầu vàng Golden-throated Barbet Tên Khoa Học Megalaima franklinii Tên Việt Nam Gõ kiến vàng lớn Tên Khoa Học Chrysocolaptes lucidus Tên Việt Nam Chim manh Vân Nam Tên Khoa Học Anthus hodgsoni Tên Việt Nam Phường chèo lớn (Hồng Tước) Tên Khoa Học Coracina macei Tên Việt Nam Chim Uyên Ương (Hồng Tước Nhỏ Dalat) Tên Khoa Học Campephagidae tên Việt Nam Chim Ngũ Sắc (Silver-eared Mesia) Tên Khoa Học Leiothrix argentauris Tên Việt Nam Mi lang biang Tên Khoa Học Crocias langbianis King, Tên Việt Nam Khướu mào bụng trắng Tên Khoa Học Yuhina zantholeuca Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Bạc má họng đen ( Black-throated Tit ) Tên Khoa Học Aegithalos concinnus Tên Việt Nam Bạc má bụng vàng Tên Khoa Học Parus monticolus Tên Việt Nam Bạc má rừng hay bạc má mày vàng Tên Khoa Học Sylviparus modestus Tên Việt Nam Trèo cây huyệt h

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng Pháp :  haricot vert , danh pháp khoa học Phaseolus vulgaris , là một giống  đ