Chuyển đến nội dung chính

Cây thừng mực (lồng mức)

Cây thừng mực (theo cách gọi miền Bắc), lồng mức (theo cách gọi miền Nam), danh pháp khoa học là Holarrhena pubescens, thuộc họ La bố ma (Apocynaceae).
Cây Thừng mực có nguồn gốc ở đông Châu Phi nhiệt đới và Á Châu nhiệt đới từ Ấn Độ đến Việt Nam, bao gồm Bangladesh, Campuchia, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan, Việt Nam.

Cây thừng mực đặc biệt chiếm ưu thế trong vùng rộng lớn thuộc Himalaya. Trong Châu Phi, hiện diện từ miền đông của Cộng hòa dân chủ Congo và Kenya tới miền Bắc Nam Phi.

Cây Thừng mực được trồng trong vườn thực vật ở Châu Phi, Ấn Độ và những đảo ở Ấn Độ Dương. Ở Châu Á, trồng ở Quang Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Đài Loan

Thừng mực hiện diện trong những rừng thường xanh khô với lá khô rụng sớm, trong những thảo nguyên bụi cây và đồng cỏ hoặc nơi có đá, thường gần suối, lên đến độ cao 1500 m.

Cây Thừng mực là một loài tiên phong xâm chiếm vào những không gian mở.

Cây thừng mực là cây tiểu mộc, cao 3-12 m, đường kính khoảng 20 cm, lá rụng, nhánh màu trắng nhạt, cành non và mặt dưới lá có lông, với mủ sữa trắng trong tất cả những bộ phận của cây, vỏ thô màu nâu nhạt, nứt tróc theo chiều dọc dạng những mảnh nhỏ, vỏ cây còn non gần như láng.

Lá, đơn, mọc đối, có phiến xoan thuôn dài, to 10-27 x 5-12 cm với 11-20 cặp gân phụ, hơi có lông rậm, màu xanh lá cây đậm ở mặt trên, mặt dưới màu nhạt, đáy tù đỉnh nhọn, bìa phiến nguyên, láng hoặc có lông ở mặt dưới, có tuyến ở đáy, cuống ngắn 4-6 mm đôi khi 0, có lông, mập.

Phát hoa, chùm tụ tán ở chót nhánh, rậm nhiều hoa, xuất hiện cùng với những lá mới, nhánh hoa dày đặc những lông. Hoa, đều, trắng kem, rất thơm, hoa lưỡng phái. Đài có răng nhọn, thẳng, thùy của đài hoa 5, kích thước 2,5 mm dài, thuôn, hình mũi mác, có lông, tuyến nằm bên dưới. Vành hoa, thùy vành hoa 5, nằm chồng lên nhau về bên phải, thuôn dài, hình ống, ống dài 1,3 cm, bao phủ bởi ít lông, miệng vành với một vòng lông, thùy vành 1-3 cm.

Nhụy đực, tiểu nhụy 5, bao gồm, chỉ ngắn, đính vào ống vành, bao phấn có dạng mũi tên.
Nhụy cái, đĩa vắng mặt, bầu noãn 2 tâm bì, nhiều noãn trong mỗi tâm bì, vòi nhụy 2 mm dài, nuốm hình nêm, nứt đôi.

Quả: manh nang, cặp đôi nối nhau ở đầu sau đó rời ra, hình ống, dài 15-30 cm và mảnh dài, thường rải rác những đóm trắng.

Hạt: hẹp hình chữ nhật, dài 15 mm, lông mào dài 4-4,5 cm, màu nâu, để giúp cho hạt phát tán xa.

Hình ảnh về cây thừng mực (lồng mức):

Thừng mực,cây thừng mực,cây lồng mức

Thừng mực,cây thừng mực,cây lồng mức

Thừng mực,cây thừng mực,cây lồng mức

Thừng mực,cây thừng mực,cây lồng mức

Thừng mực,cây thừng mực,cây lồng mức

Thừng mực,cây thừng mực,cây lồng mức

Thừng mực,cây thừng mực,cây lồng mức

Thừng mực,cây thừng mực,cây lồng mức

Thừng mực,cây thừng mực,cây lồng mức
Cây thừng mực (lồng mức)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng Pháp :  haricot vert , danh pháp khoa học Phaseolus vulgaris , là một giống  đ

Cơm nguội vàng hay còn gọi là cây sếu, phác, cơm nguội Trung Quốc - Celtis sinensis Pers.

Cơm nguội vàng  hay còn gọi là  cây sếu ,  phác ,  cơm nguội Trung Quốc  (tên khoa học:  Celtis sinensis  Pers., tiếng Trung:  朴树 ) là một loài thực vật thuộc  chi Cơm nguội ,  họ Gai dầu  ( Cannabaceae ). Phân loại khoa học Giới   ( regnum ) Plantae (không phân hạng) Angiospermae (không phân hạng) Eudicots Bộ   ( ordo ) Rosales Họ   ( familia ) Cannabaceae Chi   ( genus ) Celtis Loài   ( species ) C. sinensis Danh pháp hai phần Celtis sinensis Pers. Các danh pháp đồng nghĩa có:  Celtis bodinieri   H. Léveillé ;  C. bungeana  var.  pubipedicella   G. H. Wang ;  C. cercidifolia   C. K. Schneider ;  C. hunanensis   Handel-Mazzetti ;  C. labilis   C. K. Schneider ;  C. nervosa   Hemsley ;  C. tetrandra   Roxburgh  subsp.  sinensis   (Persoon) Y. C. Tang .