Họ Rau răm hay còn gọi là họ Nghể, họ Kiều mạch có danh pháp khoa học là Polygonaceae, là một nhóm thực vật hai lá mầm, chứa khoảng 43-53 chi và trên 1.100 loài cây thân thảo, cây bụi và cây thân gỗ nhỏ với các cơ quan sinh sản đơn tính xuất hiện tên cùng một cây hay trên hai cây khác nhau. Một số thành viên trong họ này được biết đến như là kiều mạch, chút chít, đại hoàng, nghể, rau răm, hà thủ ô đỏ, hoa ti gôn v.v.
Trong hệ thống Cronquist, họ Polygonaceae được đặt trong bộ của chính nó, nhưng các hệ thống phân loại mới hơn lại coi họ này như là một phần của bộ Caryophyllales.
Từ nguyên
Tên gọi khoa học của họ dựa trên chi Polygonum và lần đầu tiên được Antoine Laurent de Jussieu sử dụng năm 1789 trong sách Genera Plantarum của ông[1]. Tên gọi này là chỉ tới nhiều mắt phồng lên trên thân của nhiều loài. Nó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp poly nghĩa là nhiều và goni nghĩa là đầu gối hay khớp.Sự đa dạng
Họ Polygonaceae bao gồm khoảng 1.110-1.200 loài[2]. Chúng phân bố trong 43-53 chi. Các chi lớn nhất là Eriogonum (240 loài), Rumex (200 loài), Coccoloba (120 loài), Persicaria (100 loài) và Calligonum (80 loài)[3][4]. Họ này có mặt rộng khắp trên thế giới, nhưng đa dạng nhất tại khu vực ôn đới Bắc bán cầu, còn trong khu vực nhiệt đới thì có ít số lượng loài hơn.Sử dụng
Một số loài được trồng làm cây cảnh[5]. Một vài loài trong chi Triplaris cung cấp gỗ[2]. Quả của Coccoloba uvifera ăn được và tại Florida thì thạch làm ra từ loại quả này được buôn bán ở quy mô thương mại[6]. Hạt của 2 loài Fagopyrum cung cấp một loại lương thực (kiều mạch). Cuống lá của đại hoàng (Rheum rhabarbarum) cũng là nguồng cung cấp rau. Lá của chút chít (Rumex acetosa) được dùng làm rau xa lát hay rau ăn lá[7]Tuy nhiên, họ Polygonaceae cũng chứa một vài loài cỏ dại nguy hiểm nhất. Chúng bao gồm các loài trong các chi Persicaria, Emex, Rumex, Polygonum[2].
Phân loại
Họ Polygonaceae được định nghĩa rõ ràng và từ lâu đã được nhiều tác giả công nhận. Trong hệ thống APG III năm 2009, nó được đặt trong bộ Caryophyllales[8]. Trong phạm vi bộ này, nó nằm bên ngoài nhánh lớn gọi là Caryophyllales phần lõi[9]. Nó là đơn vị phân loại có quan hệ chị-em với họ Plumbaginaceae, nhưng không giống nhau về mặt hình thái[10].Sửa đổi bao hàm toàn diện gần đây cho họ này của John Brandbyge năm 1993 như một phần của hệ thống Kubitzki[4]. Brandbyge tuân theo các hệ thống có sớm hơn về phân loại thực vật để chia họ Polygonaceae ra thành 2 phân họ là Eriogonoideae và Polygonoideae. Kể từ năm 1993 thì định nghĩa của 2 phân họ này đã thay đổi nhờ có các nghiên cứu phát sinh chủng loài về các trình tự ADN[11]. Các chi có quan hệ với Coccoloba và Triplaris đã được chuyển từ Polygonoideae sang Eriogonoideae. Chi Symmeria không thuộc về bất kỳ phân họ nào do nó có quan hệ chị em với toàn bộ phần còn lại của họ này[12]. Chi Afrobrunnichia cũng có thể tạo ra một phân họ mới[13].
Brandbyge viết miêu tả cho 43 chi của họ Polygonaceae vào năm 1993[4]. Kể từ đó, một vài chi mới đã được dựng lên, và một vài chia tách của các chi Brunnichia, Eriogonum và Persicaria cũng đã được nâng cấp thành chi[3][12][14]. Một vài chi là không đơn ngành và giới hạn của chúng cần được sửa đổi. Chúng bao gồm Ruprechtia, Eriogonum, Chorizanthe, Persicaria, Aconogonon, Polygonum, Fallopia và Muehlenbeckia.
Danh sách các chi của họ Polygonaceae có thể tìm thấy ở nhiều nơi trên Internet[15][16][17].
Phân chia dưới đây lấy theo GRIN[17].
- Phân họ Polygonoideae được đặc trưng bởi sự thiếu vắng của tổng bao và sự có mặt của bẹ chìa (các bao vỏ, màng bọc phát triển từ các lá kèm ở các gốc lá đính kèm). Một số bẹ chìa có các tua có lông. Phân họ này bao gồm khoảng 15-20 chi và 590 loài.
- Eskemukerjea[18]
- Oxygonum
- Tông Calligoneae
- Calligonum (bao gồm cả Pterococcus).
- Pteropyrum
- Tông Fagopyreae
- Fagopyrum (bao gồm cả Harpagocarpus, Parapteropyrum, Pteroxygonum).
- Tông Persicarieae
- Aconogonon[18] (bao gồm cả Aconogonum, Pleuropteropyrum). Có thể gộp trong chi Persicaria.
- Bistorta[18]. Có thể gộp trong chi Persicaria.
- Koenigia
- Persicaria (bao gồm cả Amblygonum, Antenoron, Chylocalyx, Rubrivena, Tovara).
- Tông Polygoneae
- Atraphaxis (bao gồm cả Physopyrum, Tragopyrum).
- Fallopia (bao gồm cả Bilderdykia, Reynoutria[19]). Có thể gộp trong chi Polygonum.
- Homalocladium[18]. Có thể gộp trong chi Muehlenbeckia.
- Knorringia[18]
- Muehlenbeckia
- Polygonella (bao gồm cả Delopyrum, Dentoceras, Gonopyrum, Thysanella). Có thể gộp trong chi Polygonum.
- Polygonum (bao gồm cả Duravia).
- Tông Rumiceae
- Phân họ Eriogonoideae với khoảng 28-30 chi, 520 loài, chỉ tìm thấy tại khu vực Tân Thế giới.
- Acanthoscyphus[18]: Có thể gộp trong chi Oxytheca.
- Afrobrunnichia[18]
- Antigonon (bao gồm cả Corculum).
- Aristocapsa
- Brunnichia (bao gồm cả Rajania).
- Centrostegia
- Chorizanthe (bao gồm cả Acanthogonum, Eriogonella).
- Coccoloba (bao gồm cả Campderia).
- Dedeckera
- Dodecahema
- Eriogonum
- Gilmania (bao gồm cả Phyllogonum).
- Goodmania (bao gồm cả Gymnogonium, Gymnogonum).
- Gymnopodium (bao gồm cả Millspaughia).
- Harfordia
- Hollisteria
- Johanneshowellia[18]. Có thể gộp trong chi Eriogonum.
- Lastarriaea
- Leptogonum
- Mucronea
- Nemacaulis
- Neomillspaughia
- Oxytheca (bao gồm cả Brisegnoa).
- Podopterus
- Pterostegia
- Ruprechtia (bao gồm cả Enneatypus).
- Sidotheca[18]. Có thể gộp trong chi Oxytheca.
- Stenogonum
- Systenotheca
- Triplaris (bao gồm cả Vellasquezia).
- Phân họ Symmerioideae (trong sách The Families and Genera of Vascular Plants của Brandbyge và danh sách của GRIN thì xếp trong phân họ Eriogonoideae, nhưng APG tách ra thành phân họ Symmerioideae Meisner.): 1 chi, 1 loài Symmeria paniculata ở miền bắc Nam Mỹ và Tây Phi.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây dựa theo 2 bài viết khoa học năm 2009-2010 về phát sinh chủng loài phân tử của họ Polygonaceae[11][12].Họ Rau răm Polygonaceae có gần 60 loài ở VN, hầu hết là cỏ nhỏ mọc hoang dại, vài loài làm rau ăn (rau Răm), cây lương thực (Tam giác mạch), hoa kiểng (Ti-gôn), cây thuốc (Hà thủ ô đỏ), chỉ có 1 loài cây đại mộc là cây Nho biển.
Sau đây là vài loài :
1. Antigonon leptopus Hook. & Arn. : hoa Ti-gôn, dây Bông Nho
var. alba
2. Coccoloba uvifera (L.) L. : Nho biển
trái
3. Fagopyrum esculentum Moench. : Tam giác mạch, Kiều mạch
Loài cây được trồng nhiều ở các tỉnh vùng núi cao phía Bắc để thu hoạch hạt làm lương thực hay chăn nuôi
4. Muehlenbeckia platyclada (F.Muell.) Meissn. : Trúc tiết, Lân bách
Thân nhánh dẹp dẹp như cây hoa Quỳnh, hoa tí ti nơi nách lá
5. Polygonum caespitosum Bl. : Nghể phủ
6. Polygonum capitatum Ham. ex D. Don. : Nghể hoa đầu
7. Polygonum chinense L. : Thồm lồm, Nghể Trung quốc
tên khác Polygonum chinensis L.
8. Polygonum nepalense Meissn. : Nghể núi, Nghể Nepal
tên khác Polygonum alatum Buch. –Ham. ex D.Don.
9. Polygonum odoratum Lour. : Rau Răm
10. Polygonum orientale L. : Nghể đông, Nghể bà
11. Polygonum perfoliatum L. : Nghể xuyên lá, Thồm lồm gai, rau Má ngọ
12. Polygonum persicaria L. : Nghể bún
13. Polygonum persicaria var. agreste Meissn. : Nghể ruộng
14. Polygonum plebejum R. Br. : Nghể thông thường, Mễ tử thảo
15. Polygonum pulchrum Bl. : Nghể
tên khác Polygonum tomentosum Willd.
Cây này thường gặp ven bờ nước sông rạch khắp miền Nam
16. Rumex crispus L. : Dương đề nhăn, Chút chít nhăn
Nhận xét
Đăng nhận xét