Chuyển đến nội dung chính

RAU TÀU BAY - Gynura crepidioides Benth.

RAU TÀU BAY

Cây rau tàu bay

Lá và hoa rau tàu bay

-Tên gọi khác: Cải tàu bay, cải trời rừng.
-Tên tiếng Anh: Okinawan spinach.
-Tên khoa học: Gynura crepidioides Benth.
-Tên đồng nghĩa: Crassocephalum crepidioides,

Phân loại khoa học


Bộ (ordo):
Cúc (Asterales)
Họ (familia):
Cúc (Asteraceae)
Phân họ (subfamilia):
Cúc (Asteroideae)
Tông (tribus):
Chi (genus):
Loài (species):
Gynura crepidioides

Lưu ý! Không nên nhầm lẩn Cây Rau tàu bay với một loài cây khác có tên làCỏ tàu bay (cây bơm bớp, cây cỏ Lào, cây cộng sản) có tên khoa học là Chromolarna odorata (L) King et Robinson. Đây là loài cây cũng phát tán hạt như cây tàu bay, lá xào ăn được nhưng rất hôi, chủ yếu dùng để làm thuốc.

Phân bố

Chi Xuyên liên (Gynura) thuộc Họ cúc (Asteraceae) với khoảng 20 loài cây thân thảo hàng năm sống ở các trảng rừng cận nhiệt đới, có hình dạng giống như cây cải trời (Blumea lacera) sống ở vùng đồng bằng.
Rau tàu bay (Gynura crepidioides) là cây thân thảo đứng mọc hoang dại ở những nơi thoáng, len lỏi trong các cánh rừng hoặc bìa rừng, ven suối ở các vùng núi rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới...thuộc Châu Á, Châu Phi, các đảo ở ĐôngNam Địa Trung Hải , Quần đảo Cook, các đảo ở Thái Bình Dương. Ngoài ra ở Mỹ loài cây này có ở bang Florida và ở Hawaii.
Ở Việt Nam rau tàu bay mọc ở đồng bằng, trảng rừng, vùng núi khắp cả nước, nhiều nhất ở Miền Đông Nam Bộ và ở dãy Trường Sơn.

Mô tả

Là loài cây một năm, thích hợp với đất ẩm, phân bố rộng. Có thể mọc ở những nơi có độ cao tới 2.500 m, có thể tái tạo bằng hạt nảy mầm hoặc bằng thân cây. 
-Thân: Cây thân thảo mập, có rãnh mọc đứng, cao khoảng 0,4 m đến 0,5 m nhưng cũng có thể tới 1 m.
-Rể:  rễ cái màu trắng hoặc nâu. 
-Lá:  to, mỏng, hình trứng dài, phần chóp phiến lá có hình thoi, phần dưới có những thuỳ xẻ sâu; mép lá có răng cưa to hoặc có khía, có mùi thơm. Làm rau luộc, xào và nấu canh ăn được.
-Hoa: Cụm hoa dạng đầu, mọc ở nách lá hoặc ở ngọn, gồm nhiều hoa màu hồng nhạt đến đỏ và đỏ nâu, bao chung gồm hai hàng lá bắc hình sợi. Hoa lưỡng tính, hợp thành ngù, có mào lông mịn, trắng, mềm. Hoa nở từ tháng 9 đến tháng 2, ra quả từ tháng 10 đến tháng 3. Đầu các nhụy hoa lúc khô biến thành các túm bông nhẹ, bay theo gió, đem theo nhụy và hạt cây đi đến những nơi thuận lợi để sinh sôi.
Khi có gió thổi, các nhụy hoa khô mang hạt bay uốn lược trong gió để khuếch tán nên được gọi là rau tàu bay. Và tên gọi này cũng chỉ có trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vì kể từ thời kỳ này mới có “tàu bay”.

Hoa rau tàu bay đang nở
-Quả: Quả bế hình trụ, có một mào lông trắng ở đỉnh.

Hạt rau tàu bay khuếch tán

Thành phần hóa học

Có lẽ cũng vì ân tình đối với rau tàu bay mà trong hàng trăm loài rau rừng ăn được thì hiếm có loài rau rừng nào được các viện quân y và ngành Đông y và Tây y Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về thành phần hóa học của rau tàu bay.
Theo các ngiên cứu ở Việt nam cho biết thành phần hóa học trong rau tàu bay tưoi (tính theo %) như sau: nước 91,1%, protein 2,5%, lipid 0,2%, cellulose 1,6% dẫn xuất không protein 3,7%. Khoáng toàn phần 0,9%. Về vitamin có 3,4mg% caroten (tiền sinh tố A), 10mg% vitamin C.

Công dụng

a-Lá rau tàu bay dùng làm rau
+Ở Việt Nam
Rau tàu bay được biết đến và nổi tiếng qua chiến tranh Việt Nam, đây là một loại rau rừng giúp bộ đội Việt Nam làm nguồn thực phẩm thay cho rau xanh trong những tháng năm chiến trường ác liệt.
Tuy có tên là rau nhưng thực tế nó chỉ là một loài cỏ dại, có thể ăn được như rau nhưng do có nguồn gốc hoang dại, còn nhiều độc tính nên không được sử dụng nhiều hoặc trồng làm rau. Ở Việt Nam, đôi khi nó được sử dụng làm thực phẩm thay thế rau xanh nhưng rất hạn chế vì có mùi hắc rất khó chịu kể cả khi đã luộc chín.
Đọt non và lá rau tàu bay có thể dùng để ăn sống, muối dưa, luộc, xào, nấu canh, hoặc làm nộm trộn với hoa (bắp) chuối... Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, nó là món ăn thường xuyên của du kích, bộ đội khi hoạt động ở những vùng rừng núi do không có điều kiện để trồng rau xanh thường xuyên để tránh bị lộ nơi đóng quân hoặc những lúc hết lương thực.
Tuy nhiên rau tàu bay có vị đắng và mùi hôi đặc trưng cần có cách chế biến phù hợp mùi vị mới thơm ngon.
Có người khoái mùi vị đặc trưng của rau tàu bay. Nhưng có ý kiến cho rằng ăn nhiều và thường xuyên rau tàu bay sẽ bị thiếu máu. Để khắc phục tình trạng đó thì cần làm toan hóa rau tàu bay bằng cách phối hợp chấm nước mắm chanh hoặc làm rau trộn có chanh hoặc giấm để tăng hấp thu sắt tạo huyết sắc tố. Cũng có ý kiến dùng kéo dài rau tàu bay có thể bị sỏi thận. Do đó nên ăn thay đổi những món rau rừng khác. Tuy nhiên, những ý kiến này chưa được khoa học kiểm chứng.
Kinh nghiệm của các cựu chiến binh Việt nam cho biết: nấu canh rau tàu bay nên lắng bỏ phần dầu để khỏi bị có mùi hắc như mùi xăng rất đặc trưng của rau tàu bay, rồi mới cho gia vị vào, thì sẽ thơm ngon.
Hiện nay ở Khu bảo tàng Chiến khu D đang khôi phục trồng lại rau tàu bay để phục vụ các cựu chiến binh về thăm lại chiến trường xưa và các du khách trong và ngoài nước cũng rất thích thú thưởng thức món rau chiến khu với nhiều món ăn như rau tàu bay bóp gỏi, rau tàu bay muối dưa chua, rau tàu bay xào thịt rừng, canh, lẫu rau tàu bay!

Rau và canh rau tàu bay
+Ở Trung Quốc
Loài rau tàu bay (Gynura crepioides) được dùng làm dược liệu từ lâu đời. Hiện nay rau tàu bay được trộn làm rau xà lách và được dùng để nấu canh. Loài rau tàu bay đang được trồng thương mại hóa ở Trung Quốc như một loài rau sạch nhằm khuyến cáo người dân ăn để làm giảm lượng cholesterol có hại trong máu.
+Ở Nhật Bản
Ở tỉnh Okinawa bao gồm nhiều quần đảo ở cực Nam Nhật Bản công ty Organic Vibrance đang mở trang trại để trồng rau tàu bay (Gynura crepioides) để kinh doanh rau sạch có vị thuốc để làm giảm cholesterol được mang tên là “Rau bina Okinawa” và từ đó trong tiếng Anh xuất hiện tên gọi cho rau tàu bay là “Okinawan spinach”.
Rau tàu bay được pha trộn với các rau xanh khác làm món salad để tăng khẩu vị và làm thuốc thảo dược.
Ngoài ra nhờ sức sống tốt của loài rau này nên ở Nhật Bản cũng dùng để che phủ đất, chống xói mòn, làm cây cảnh và dùng trong thiết kế nông nghiệp sinh thái (permaculture).
b- Các bộ phận cây rau tàu bay dùng làm thuốc
Theo y học dân gian, rau (cải) tàu bay có vị đắng, mùi thơm, tính bình, có tác dụng thanh can hỏa, giải độc, se da, tiêu viêm, tán uất, tiêu hòn cục, cầm máu, sát trùng. Thường dùng cả cây phơi khô làm thuốc trị cảm sốt, hạ nhiệt, kích thích tiêu hóa và lợi tiểu. Dịch lá trừ giun, thu liễm, giã đắp trị mụn nhọt.
Rau tàu bay có những công dụng phòng chữa bệnh như sau:
- Rau tàu bay cung cấp các loại vitamin nói chung và vitamin A, C là những vitamin chống ôxy hóa, khử gốc tự do.
- Cải tàu bay có nhiều xơ gây nhuận tràng và giảm hấp thu chất béo, làm thức ăn kiêng cho người béo phì.
-Một số vùng dân cư người ta quen dùng rau tàu bay phòng chống côn trùng, rắn rết cắn, bằng cách giã nhuyễn xoa đắp lên chỗ bị tổn thương.
(theo BS. Phó Đức Thuần).

Các giai thoại và thơ ca liên quan đến rau tàu bay

Chuyện kể Bác Hồ ăn rau tàu bay
Tháng 9/1950, Bác Hồ đi thị sát chiến dịch biên giới. Hôm đi qua chợ mới Bắc Kạn, sáu bác cháu ăn lương khô, có được chút chất tươi chính là món rau tàu bay luộc. Anh em khen được bữa ăn ngon miệng. Bác Hồ nói: “rau tàu bay có khác, ăn vào thấy nhẹ cả người, lại có cả mùi xăng”. Anh em lại được dịp phá lên cười vui vẻ.
Nguồn: (theo BS. Phó Đức Thuần).
Rau tàu bay trong Thơ ca
Anh đã sống những tháng năm hào hứng
Ăn rau tàu bay, hát vỗ nhịp vào báng súng
Trích (Về làng - Trần Đăng Khoa)
Cơm gạo mốc, mà tưởng cơm nếp mới
Rau "tàu bay" không muối cũng thành canh...
(Đêm tháng năm - Văn Thảo Nguyên)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươ...

DANH SÁCH 20 LOÀI CÁ CÓ ĐỘC TỐ MẠNH NHẤT

 Ăn cá và ngộ độc thực phẩm rất thường xảy ra ở nước ta. Một số người ăn cá nóc và chết. Một số ăn cá ngừ và bị ngộ độc thực phẩm tập thể phải nhập viện. Một vài người bị cá độc chích. Một số người dị ứng với một vài con cá. Tất nhiên, ngộ độc thực phẩm có nhiều nguyên nhân, từ chính con cá, đến cả quá trình bảo quản, chế biến của những người buôn bán cá và cả những người nấu nướng. Phòng bệnh hơn chữa bệnh, những gì các bạn không chắc chắn thì nên tránh xa. Chúng tôi xin lược dịch về 20 loài cá có độc tố mạnh nhất từ chính bản thân con cá. Có những con cá rất đẹp như cá sư tử, có những con xấu xí, nhưng cả 20 con trong danh sách này đều có điểm chung là có chất độc.    Không phải mọi loài cá đều có thể ăn được. Có những loài cá không thích hợp để ăn. Có nhiều cá có độc hơn cả rắn độc. Có ít nhất 1.200 loài cá độc trên thế giới, như...

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng...