Khoai trời hay khoai dại, củ dại (danh pháp khoa học: Dioscorea bulbifera) là loài thực vật thuộc chi Củ nâu, bản địa củachâu Phi và châu Á.
Các dạng củ khoai trời hoang dại có thể chứa độc tố thuộc nhóm steroid, diosgenin, được dùng để sản xuất một số hormon steroid tổng hợp
Các dạng củ khoai trời hoang dại có thể chứa độc tố thuộc nhóm steroid, diosgenin, được dùng để sản xuất một số hormon steroid tổng hợp
Bộ phận dùng: Thân rễ (Củ) và dái củ - Rhizoma et Bulbus Dioscoreae Bulbiferae, thường có tên là Hoàng dược tử
Nơi sống và thu hái: Loài của vùng Ấn độ - Malaixia, nay phổ biến ở cả châu Phi và châu Mỹ. Ở nước ta, cây cŨng thường được trồng ở đồng bằng và vùng núi tới độ cao 1000m. Thu hoạch củ và dái củ quanh năm.
Thành phần hoá học: Trong cây có glucosid độc là Diosbulbin A. Dái khoai cũng chứa một chất độc như củ.
Tính vị, tác dụng: Củ của những cây hoang dại có thịt đắng, màu vàng chanh hay kem, gây buồn nôn; có khi còn có chất dịch màu tím nhạt, có độc. Do trồng trọt mà các tính chất này của củ biến mất đi và củ trở thành ăn được. Trong y học cổ truyền, thường dùng Dái củ. Nó có vị đắng, tính bình; có tác dụng tiêu viêm, tiêu sưng, long đờm, cầm máu.
Công dùng: Người ta thường lấy dái củ luộc kỹ ăn. Dái khoai có độc nhưng khi rửa nhiều lần và luộc kỹ thì chất độc bị loại đi. Bột khoai dái cũng tương tự như bột ngũ cốc và bột Gạo. Củ ở dưới đất không dùng ăn nhưng cũng dùng làm thuốc. Khoai dái thường dùng trị 1. Bướu giáp (Sưng tuyến giáp trạng); 2. Viêm hạch bạch huyết do lao; 3. Loét dạ dày và đường ruột; 4. Nôn ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, chảy máu tử cung. Dái củ có thể dùng chữa ho gà và dãn hai bên thái dương chữa đau đầu, mài với nước mà uống thì mửa, giải được chất độc của thuốc. Liều dùng 10-15g, sắc uống, nếu là loét ung thư, có thể dùng liều cao, tới 30g. Dùng ngoài trị đinh nhọt, rắn cắn, chó dại cắn. Ở Campuchia, người ta dùng củ trị rối loạn tuần hoàn. Ở Ấn độ, dái của những cây mọc hoang dùng đắp các vết loét và dùng trong uống lẫn với cumin (Thìa là Ai cập), đường và sữa trị trĩ, giang mai và lỵ. Bột dái củ lẫn bơ dùng trị ỉa chảy. Ở Trung quốc, theo Tâm biên Trung y khái yếu, củ dùng trị loét thực quản, loét dạ dày, sưng tuyến giáp, nôn ra máu, khạc ra máu, chảy máu cam, chảy máu dạ con, nhọt độc, rắn cắn, chó dại cắn. Dái củ trị viêm phế quản cấp và mạn và hen suyễn.
Đơn thuốc:
1. Bướu giáp: Dùng 200g củ, ngâm vào 1000cc rượu trắng trong một tuần, chiết lấy nước. Ngày uống 100ml, rượu, chia làm 3-4 lần
2. Thổ huyết, ho khạc ra máu, chảy máu mũi: Dùng 8-16g củ khô sắc nước uống (Dùng dái củ tốt hơn).
3. Mụn nhọt sưng tấy, rắn cắn, chó dữ cắn: Giã củ tươi, vắt lấy nước cốt uống, bã đắp vào chỗ đau.
Nhận xét
Đăng nhận xét