Bộ Mực ống (danh pháp khoa học: Teuthida) là một nhóm động vật biển thuộc siêu bộ Mười chân (Decapodiformes) của lớp Chân đầu (Cephalopoda). Mực ống có phần thân và phần đầu rõ ràng. Thân cân xứng hai phía, có da và có 8 tay và một cặp xúc tu. Mực ống có chứa hợp chất mực màu đen trong cơ thể, khi gặp nguy hiểm, mực phun ra tạo màn đen dày đặc, qua đó lẫn trốn khỏi nguy cơ đe dọa.
Bộ Mực ống | |
---|---|
Thời điểm hóa thạch: (at least) Late Cretaceous–Recent[1] | |
![]()
Một con mực ống châu Âu (Loligo vulgaris) còn sống.
| |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Mollusca |
Lớp (class) | Cephalopoda |
Phân lớp (subclass) | Coleoidea |
Liên bộ (superordo) | Decapodiformes |
(không phân hạng) | Neocoleoidea |
Bộ (ordo) | Teuthida A. Naef, 1916b |
Suborders | |
Việt Nam là nước có diện tích biển lớn dọc từ Bắc chí Nam, Hải sản rất đa dạng nhiều chuẩn loại. bài viết này sẽ cho các bạn có nhiều kiến thức hơn về loài Mực mà chúng ta đã quá quen thuộc với nó.
Loài Mực ở nước ta gồm 4 bộ khác nhau bao gồm bộ Mực Ống, bộ Mực Lá, bộ Mực Nang, bộ Mực Ma ( Mực Xà), chúng ta sẽ đi tìm hiểu về từng loại.
1. Mức Ống:

Là loại mực thân dài, hình ống có 8 râu nhỏ và 2 xúc tu dài, da có nhiều đốm hồng, mắt to trong suốt, đặc biệt là phân vây đuôi rất dễ nhận biết nó xuất phát từ giữa thân kéo dai xuống cuối thân hình thoi. Có túi mực đen dùng để phòng thân khi bi kẻ thù tấn công.
Cảm quan khi ăn, thịt ngọt, thơm và có độ dai ăn rất ngon miệng.
Mực Ống tươi thường được bán với giá 150.000 – 200.000đ 1kg, ngoài ra Mực Ống được chế biến làm mực một nắng cao cấp giá tầm 600.000 – 700.000đ 1kg và mực Nắng cao cấp giá tầm 800.000 – 900.000đ 1kg.
Cách chọn lựa mực ống ngon khi mua:
+ Đối với mực ống tươi, khi mua chúng ta chú ý đến phần Mắt của mực xem có trong suốt hay không, và da mực phải còn hồng hào, bóp vào thân mực xem độ đàn hồi có tốt không.
+ Mực Một Nắng: Khi mua điều đầu tiên chúng ta phải tỉnh táo dựa vào các đặc điểm của mực Ống để phân biệt mực một nắng làm từ mực Ống, và mực một nắng làm từ mực Ma. Thứ hai chúng ta nên chọn mua mực còn da hồng hào, các mực một nắng nào đã lột trắng da thì nó chắc chắn là mực Ma. Khi đã xác định được đúng làm từ mực Ống thì chúng ta phải xét đến cơ sở sản xuất của cá nhân hay của công ty, nếu là cá nhân thì chúng ta không nên mua, vì các mực một nắng này lấy từ lượng mực ống lâu ngày bán tươi không được nên mang ra phơi ngoài đương, không có trang bị các vật dụng che chắn con trùng, ruồi muỗi nên sản phẩm rất mất vệ sinh.Tốt nhất chung ta nên chọn đơn vị chuyên chế biến mực một nắng cao cấp để mua dùng hay tặng bạn bè, tuy giá có cao nhưng tiền nào của đó, sản phẩm sử dụng đáng với đồng tiền bỏ ra.
+ Mực Khô: củng giống như mực một nắng ở trên nhé, nhưng chú ý thân mực khô phải có độ trong nhất định.

Mực xà hay còn gọi là mực ma (danh pháp hai phần: Sthenoteuthis oualaniensis) là loài nhuyễn thể chân đầu thuộc ngành động vật thân mềm phân bố ở một số địa phương duyên hải miền Trung Việt Nam như Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên… và có nhiều ở vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa.[1] Đuôi mực xà có màu đen sậm, dày, xòe to như đuôi cá.[2] Mực xà sau khi phơi khô có vị hơi đắng, không ngon, ngọt và mềm như loại mực khô thông thường, mực xà ăn được, nhưng không ngon (vị hơi chát, cứng, khó nhai) nên ít dùng. Mực xà Hoàng Sa có đặc điểm phơi khô lên có màu hơi đen, vị hơi nhẫn, thị trường trong nước không chuộng vì chế biến không tốt[3]
Mực xà được ngư dân Việt Nam đánh bắt ở khu vực Trường Sa, phơi khô trên tàu. Giá mực xà khô bán sỉ dao động từ 100.000 - 150.000 đồng/kg, tùy theo loại lớn nhỏ.[1] Nghề câu mực xà thường cách bờ trên 150 hải lý với độ sâu trên 800 m nước, thời gian đánh bắg từ giữa tháng 12 đến cuối tháng 9 năm sau. Nghề câu mực xà xuất hiện từ những năm 1990, lúc đầu phương tiện đánh bắt còn nhỏ, sản lượng đánh bắt và hiệu quả sản xuất còn thấp, nay đã có cải thiện.[4] riêng ở Đà Nẵng, toàn thành phố Đà Nẵng đã có 04/14 tàu khai thác nghề câu mực xà đại dương đi khai thác.[5]
Nhiều người sử dụng mực xà để làm khô mực, loại này khi nướng ăn, thì có vị không giống mực thường dùng. Mực xà sau khi phơi khô có vị hơi đắng, không ngon, ngọt và mềm như loại mực khô thông thường. cách phân biệt mực xà và mực thông thường là phần đuôi. Đuôi mực xà có màu đen sậm, dày, xòe to như đuôi cá, còn đuôi mực ống mỏng, ôm sát vào thân. Mực xà ăn được, nhưng không ngon nên ngư dân ít dùng. Mực xà ăn được, không gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người[6] ở miền Bắc Việt Nam có đội thuyền chuyên đi câu mực xà ở vùng biển xa bờ, phơi khô và xuất bán sang Trung Quốc qua đường tiểu ngạch, chủ yếu bán cho thương lái Trung Quốc qua đường tiểu ngạch ở biên giới phía Bắc.
Mực xà | |
---|---|
![]() | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Mollusca |
Lớp (class) | Cephalopoda |
Phân lớp (subclass) | Coleoidea |
Bộ (ordo) | Oegopsina |
Phân bộ (subordo) | Oegopsina |
Họ (familia) | Ommastrephidae |
Phân họ (subfamilia) | Ommastrephinae |
Chi (genus) | Sthenoteuthis |
Loài (species) | S. oualaniensis |
Danh pháp hai phần | |
Sthenoteuthis oualaniensis Lesson, 1830 | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Symplectoteuthis oualaniensis
|
2. Mực Ma: ( Mực Xà )

Là loại mực có da xậm đen, thân củng hình ống, nhưng đặc biệt có vây đuôi xòe to ra như đuôi cá phía cuối thân, các xúc tu gần giống bạch tuộc.
Cảm quan khi ăn là thịt rất nhạt, không dai, có vị hơi nhẵn, mùi hơi khai khai, thịt rất dầy.
Mực Ma tươi thường được bán với giá từ 20.000 – 30.000đ 1kg rẻ gấp 7 lần so với mực Ống.
Ngày nay mực Ma thường được các nhà hàng đặt mua số lượng rất lơn nhưng yêu cầu phải lột da cắt thành miếng rồi ngâm thuốc tẩy cho thịt trắng, để nhà hàng lấy chế biến các món như lẩu hải sản, gỏi hải sản, cơm xào hải sản, mực hấp ….. Siêu lợi nhuận.
Ngoài ra chúng còn được rất nhiều người dùng làm nguyên liệu xử lý hóa chất, lột da, cắt đuôi cắt thân để chế biến giả mực ống 1 nắng, mực ống khô bán với giá rẻ ở các thị trường tphcm và các vùng tây nguyên không có biển nên không có kiến thức về con mực dễ bị đánh lừa.
Mực lá (danh pháp hai phần: Sepioteuthis lessoniana) là một loài mực ống quan trọng về thương mại. Giống như các thành viên khác của chi Sepioteuthis, mực là dễ dàng để phân biệt với mực khác ở chỗ chúng có vây dày hình bầu dục khỏe mở rộng xung quanh gần như toàn bộ lớp áo[5][6]. Vây mở rộng khoảng 83-97% chiều dài áo và 67-70% chiều rộng lớp áo. Vì những cái vây này, mực lá đôi khi bị nhầm lẫn với mực nang[7], một thực tế phản ánh bằng tên khoa học của nó. Lớp áo của mực lá có hình trụ, thon dần đến một hình nón cùn ở phía sau. Lớp áo thường là dài 4–33 cm ở con đực và 3,8-25,6 cm ở con cái. Cả con đực và con cái có thể đạt chiều dài lớp áo tối đa 38 cm, con đực cân nặng 403,5 đến 1.415 g (0,890-3,12 lb), trong khi con cái trưởng thành là từ 165 đến 1.046 g. Cả con đực và con cái có thể đạt được trọng lượng tối đa 1,8 kg đã được ghi nhận trong văn bản. Các chế độ ăn uống của mực lá bao gồm cá chủ yếu là động vật giáp xác và cá nhỏ. Chúng được tìm thấy ở vùng biển ôn đới và nhiệt đới của Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, và gần đây đã được du nhập vào Địa Trung Hải. Chúng thường được tìm thấy gần bờ biển, gần tảng đá, và các rạn san hô. Chúng bị được đánh bắt với số lượng lớn cho con người ở châu Á. Do tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của chúng, vòng đời ngắn, và dễ chuyên chở và dễ sống trong điều kiện nuôi nhốt, mực lá được coi là một trong những loài có triển vọng nhất cho nuôi trồng hải sản.
Mực lá | |
---|---|
![]()
Một con mực lá ở công viên đời sống biển Tokyo, Tokyo, Nhật Bản
| |
![]()
Một cặp mực là ngoài khơi bờ biển đông bắc Đài Loan
| |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Mollusca |
Lớp (class) | Cephalopoda |
Bộ (ordo) | Teuthida |
Họ (familia) | Loliginidae |
Phân họ (subfamilia) | Labeoninae |
Chi (genus) | Sepioteuthis |
Loài (species) | S. lessoniana |
Danh pháp hai phần | |
Sepioteuthis lessoniana Férussac, 1831 in Lesson, 1830–1831 | |
![]() | |
Danh pháp đồng nghĩa[1][4] | |
|
3. Mực Lá.

Mực Lá dễ dàng để phân biệt với mực khác ở chỗ chúng có vây dày hình bầu dục khỏe mở rộng xung quanh gần như toàn bộ lớp áo. Vây mở rộng khoảng 83-97% chiều dài áo và 67-70% chiều rộng lớp áo. Vì những cái vây này, mực lá đôi khi bị nhầm lẫn với mực nang một thực tế phản ánh bằng tên khoa học của nó. Lớp áo của mực lá có hình trụ, thon dần đến một hình nón cùn ở phía sau
Cảm quan khi ăn, thịt rất ngọt, dai, ngon nhất trong các loại mực.
Giá bán mực Lá tươi thường từ 250.000 – 300.000đ, ngoài ra chúng còn dùng làm chế biến mực một nắng, nhưng vì thân hình và mau da không đẹp nên còn rất hạn chế.
Khi chọn mua mực chúng ta củng để ý các yếu tố màu da, mắt, và độ đàn hồi của thân mực..jpg)
.jpg)

Mực nang có một lớp vỏ bên lớn, con ngươi hình chữ W, tám vòi và 2 xúc tu có các miệng hút có răng cưa để giữ chặt con mồi của chúng. Mực nang có kích thước từ 15 cm (5.9) đến 25 cm (9,8 in), với loài lớn nhất, Sepia apama, có áo đạt chiều dài 50 cm (20 in) và nặng hơn 10,5 kg[1].
Mực nang ăn động vật thân mềm nhỏ, cua, tôm, cá, bạch tuộc, giun và mực nang khác. Động vật ăn thịt mực nang bao gồm cá heo, cá mập, cá, hải cẩu, chim biển và mực nang khác. Tuổi thọ của chúng là khoảng 1-2 năm. Những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng mực nang là một trong những động vật không xương sống thông minh nhất[2]. Mực nang cũng có tỷ lệ kích thước não so với cơ thể thuộc dạng lớn nhất trong số tất cả các động vật không xương sống[2].
4. Mực Nang.

Mực nang có một lớp vỏ bên lớn, cơ thể hình chữ W, tám vòi và 2 xúc tu có các miệng hút có răng cưa để giữ chặt con mồi của chúng. Mực nang có kích thước từ 15 cm (5.9) đến 25 cm (9,8 in), với loài lớn nhất, Sepia apama, có áo đạt chiều dài 50 cm (20 in) và nặng hơn 10,5 kg.
Cảm quan khi ăn thịt giòn, không ngọt, thường được dùng chế biến các món xào.

Bộ Mực nang | |
---|---|
![]() | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Mollusca |
Lớp (class) | Cephalopoda |
Phân lớp (subclass) | Coleoidea |
Liên bộ (superordo) | Decapodiformes |
Bộ (ordo) | Teuthida Zittel, 1895 |
Các phân bộ và họ | |
Nhận xét
Đăng nhận xét