Chuyển đến nội dung chính

Gỗ Gù hương -Cinnamomum parthenoxylon (Jack) Meisn


Công dụng của Gù Hương


Gỗ Gù hương là theo tên gọi ngoài Bắc . Với Miền Nam thường gọi là Xá xị. Gù Hương cũng như long não, tinh dầu, dầu hạt được dùng chữa đau tê thấp. 

Gỗ Gù hương là theo tên gọi ngoài Bắc . Với Miền Nam thường gọi là Xá xị . Cũng có hai loại . Gỗ Gù hương đỏ mầu sẫm đỏ vân gỗ rất đẹp . Loại này chỉ tìm thấy ở vùng rừng núi Quảng ninh . Còn đại đa số ở vùng miền còn lại Gù Hương có mầu vàng nhạt sám pha chút sắc xanh ...
Gù Hương bị Thực dân Pháp khai thác từ xưa nên trong tự nhiên đa phần chỉ tìm thây ở dạng Lũa hoặc Gỗ tận dụng . Dạng gỗ ván với đường kính to rât hiếm ...

Vù hương, Gù lương, Re dầu, Re hương, Xá xị - Cinnamomum parthenoxylon (Jack) Meisn., thuộc họ Long não -Lauraceae.

Mô tả: Cây gỗ lớn, cao tới 25m, nhánh non không lông, đen đen. Lá có mùi sả, có phiến bầu dục, dài 6-12cm, rộng 3-6cm, đầu thon, gốc tù không có gân gốc phát triển rõ rệt, gân phụ 6-8 cặp, cuống dài 2-3cm. Chùy hoa ở nách lá, ngắn hơn lá. Hoa nhỏ màu lục trắng, bao hoa và nhị lép có lông thưa ở gốc. Quả xoan dài 8-9mm, màu đen, trên đài tồn tại hình chén có thùy cạn.

Hoa tháng 3-4 quả tháng 7-8.
Bộ phận dùng: Rễ, thân, lá, quả - Radix, Caulis, Folium et Fructus Cinnanomi Parthenoxyli. Ở Trung Quốc, có tên là Hoàng chương, Hương chương.
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Trung Quốc, Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia và Việt Nam. Ở nước ta cây mọc từ Cao Bằng, Quảng Ninh, Quảng Trị tới Quảng Nam - Ðà Nẵng.
Thành phần hóa học: Lá, gỗ thân, gỗ rễ chứa tinh dầu; hạt chứa nhiều dầu béo.
Tính vị, tác dụng: Vị hơi đắng, cay, tính ấm. Rễ, thân có tác dụng ôn trung tán hàn, tiêu thực hóa trệ. Lá có tác dụng cầm máu. Quả có tác dụng giải biểu thoát nhiệt.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Cũng như long não, tinh dầu, dầu hạt được dùng chữa đau tê thấp. Nước pha rễ dùng thay xá xị.
Ở Trung Quốc, rễ, thân dùng trị cúm, cảm mạo, ăn uống không tiêu bụng đầy trướng, đau dạ dày, viêm khớp xương do phong thấp, tiêu hóa không bình thường, ho gà, lỵ. Còn lá dùng trị ngoại thương xuất huyết, quả dùng trị cảm mạo sốt cao, bệnh sởi. 


Công dụng và liều dùng gỗ Gù Hương
Ở nước ta chưa thấy sử dụng vỏ, gỗ thân hay tinh dầu xá xị làm thuốc. Chỉ mới thấy sử dụng tinh dầu để chế nước xá xị uống giải khát, tiêu cơm. Tại Malaysia, người ta dùng gỗ cây làm thuốc bổ cho các em gái lúc tuổi dậy thì. Tại Giava, người ta dùng tinh dầu xoa bóp chữa thấp khớp, đau nhức.

Theo những tài liệu được công bố về công thức cao nước xá xị thì thành phần chính trong nước xá xị là cao thổ phục linh, cao cam thảo được dùng làm chất thơm với một tỷ lệ rất thấp salixylat metyl, tinh dầu tiểu hồi, tinh dầu Sassafras. Tinh dầu sassafras được cất từ vỏ thân và vỏ rễ cùng gỗ thân và gỗ rễ cây Sassafras officinalis L., chưa thấy ở nước ta. Hàm lượng tinh dầu trong vỏ lên tới 6%, còn trong gỗ chỉ có 2%. Tinh dầu rất lỏng, nặng hơn nước (tỷ trọng 1,070-1,076, chứa tới 80% safrol ête metylenic của allylpyrocatechin) kèm theo pinen, phellandren, một ít eugenol và long não. Tại các nước châu Âu và châu Mỹ, Sassafras được dùng làm thuốc ra mồ hôi, chữa thống phong, phong thấp. Tinh dầu được làm hương cho xà phòng thơm rẻ tiền và làm nguyên liệu chiết safrol. Từ safrol oxy hóa bằng kali permanganat sẽ được ête metylic của aldehyt protpcatechic có mùi heliotrope dùng trong hương liệu với tên heliotropin hay piperonal.

Sự khác nhau giữa gổ Hương và Gù Hương?




Gỗ Hương có hai loại Hương huyết và Hương thông . Hương huyết mầu đỏ sẫm như gỗ Trắc . Thớ gỗ trắc mịn vân đẹp . hương thông màu nhạt thớ gỗ xốp giá trị thấp hơn hương huyết rất nhiều ...
Gỗ Gù hương là theo tên gọi ngoài Bắc . Với Miền Nam thường gọi là Xá xị . Cũng có hai loại . Gỗ Gù hương đỏ mầu sẫm đỏ vân gỗ rất đẹp . Loại này chỉ tìm thấy ở vùng rừng núi Quảng ninh . Còn đại đa số ở vùng miền còn lại Gù Hương có mầu vàng nhạt sám pha chút sắc xanh ...
Sự khác biệt giữa hai loại Hương và Gù Hương là khá rõ nét . Gù hương thơm ngào ngạt .Tom Gỗ xốp... Mầu rất xấu bề mặt loang lổ sám xịt một thời gian sau khi phun PU hoặc đánh Si vecny bởi do lượng tinh dầu trong Gỗ rất lớn gây ra phản ứng đó. Gù hương nứt nẻ rất nhiều khi thời tiết hanh khô . Gù Hương bị Thực dân Pháp khai thác từ xưa nên trong tự nhiên đa phần chỉ tìm thây ở dạng Lũa hoặc Gỗ tận dụng . Dạng gỗ ván với đường kính to rât hiếm ...
Gỗ Hương thớ mịn vân đẹp mầu vàng hoặc đỏ tươi rất Mặt Gỗ đẹp rực rỡ khi được đánh xi và sơn PU . Được đặt tên là Hương nhưng bản thân gỗ Hương chả có mùi gì cả ... . Gỗ Hương được biết đến với độ ổn định rất cao không cong vênh nứt vỡ với thời tiết hanh khô . Gỗ hương được ưa chuộng và khai thác nhiều mây năm chở lại đây nên trong thị trường gỗ dạng Hộp Ván đường kính 1 m trở lên vẫn còn rât nhiều ...
Ở những cơ sở gia công gỗ chuyên nghiệp vẫn thường có hệ thống Lò Sấy để sử lý Gỗ tươi . Với lò Sấy là cách sử lý gỗ theo tình thế đốt cháy thời gian kiểu công nghiệp dù sao cũng không thể nào ưu viêt hơn cách thủ công truyền thống là phơi ngoài mưa nắng với năm tháng ...
Không có quý định chung theo mẫu chuẩn là Gỗ phải phơi bao nhiêu thời gian mới tốt cả . Hiểu nôm na là càng lâu càng ổn định càng tốt ( Lưu ý không lâu cỡ vài chục năm để làm mục Gỗ ) ... Cũng chính vì yếu tố thời gian đó mà vài năm chở lại đây Tượng thế được khai thác từ gỗ Lũa hoặc gốc rễ được thị trường nồng nhiệt đón nhận . Gỗ đã được tôi luyện trong đất nước và trong tự nhiên hàng vài chục năm khi làm thành sản phẩm tạo ra độ bền rất cao không cong đao. Mối Mọt cũng bó tay ...
Mặt Bếp là nơi tiêp xúc với mỡ mắm dao thớt nhiệt nóng từ mặt bếp Ga vậy nên đa phần được làm từ Đá grannis là loại đá cứng trắc độ bóng cao dễ lau rửa . Ở đây Gỗ nên chằng chỉ làm Tủ bếp đựng bát đĩa thì thích hợp hơn . 
Nếu có phải lựa chọn giữa hai loại gỗ Hương và Gù hương làm mặt bếp thì sự ưu việt là 50/50 . Gỗ Hương chịu nhiệt ít nứt vỡ nhưng không chịu được được độ ẩm ướt cao . Gù Hương có lượng tinh dầu rất cao nên có thể ngâm trong đât trong nước hàng trăm năm nhưng lại vỡ toác khi gặp nóng ...
Giải pháp cuối cùng khuyên Bạn là không nên làm mặt bếp bằng bất kể loại Gỗ nào Bạn ạ !
Trên thị trường thời điểm này gỗ Hương khẩu độ to làm mặt Bàn mặt ghế giá khoảng 7 tới 80 triêu 1 m3 . Gỗ làm khung xương 40 triệu 1m3 . Gỗ lũa gốc rễ tận dụng 20 nghìn 1 kg ...
Gỗ Gù Hương vì không có ván nên đơn vị m3 không được tính . Gỗ gốc rễ tân dụng từ 15 tới 20 nghìn 1 kg .... 

Nhận xét

  1. dang cho con bu co nen uong collagen Thắc mắc của rất nhiều chị em vẫn chưa được giải đáp, các bạn hãy theo dõi để giải quyết vấn đề thắc mắc này nhé!
    collagen hang nao tot nhat co ai mua rồi thì chỉ em với ạ
    uong collagen khi nao thi totcoó chị em nào có kinh nghiệm thì chỉ em với ạ
    collagen cua nuoc nao tot nhat cho nguoi viet nam các bạn có biết chăng
    nhung dau hiệu mang thai tháng đầu tiên thì có gì khác trong cơ thể
    dang cho con bu co nhuom toc duoc khong có ai chỉ giúp em ko nào
    thai bao nhieu tuan thi biet trai hay gaiem đang muốn tìn hieu van de nay có duoc khong ạ đang cho con bú có nên dùng kem dưỡng dakhong vaậy các mẹ

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t

Các loài chim ở Việt Nam

Tên Việt Nam Cu rốc đầu vàng Golden-throated Barbet Tên Khoa Học Megalaima franklinii Tên Việt Nam Gõ kiến vàng lớn Tên Khoa Học Chrysocolaptes lucidus Tên Việt Nam Chim manh Vân Nam Tên Khoa Học Anthus hodgsoni Tên Việt Nam Phường chèo lớn (Hồng Tước) Tên Khoa Học Coracina macei Tên Việt Nam Chim Uyên Ương (Hồng Tước Nhỏ Dalat) Tên Khoa Học Campephagidae tên Việt Nam Chim Ngũ Sắc (Silver-eared Mesia) Tên Khoa Học Leiothrix argentauris Tên Việt Nam Mi lang biang Tên Khoa Học Crocias langbianis King, Tên Việt Nam Khướu mào bụng trắng Tên Khoa Học Yuhina zantholeuca Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Bạc má họng đen ( Black-throated Tit ) Tên Khoa Học Aegithalos concinnus Tên Việt Nam Bạc má bụng vàng Tên Khoa Học Parus monticolus Tên Việt Nam Bạc má rừng hay bạc má mày vàng Tên Khoa Học Sylviparus modestus Tên Việt Nam Trèo cây huyệt h

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng Pháp :  haricot vert , danh pháp khoa học Phaseolus vulgaris , là một giống  đ