Chuyển đến nội dung chính

Rắn biển hay Đẻn

Rắn biển hay Đẻn hiện nay đang bị săn lùng'rao riết' tại Việt Nam, do những lời đồn đại là 'máu rắn hay huyết xà' có tác dụng cương dương mạnh 'hơn cả viagra'. Dân nhậu miền Nha Trang đồn nhau : ' Cha nào bị bà xã chê, chỉ cần ba lần uống rượu tiết đẻn thì 'công lực' không những được hồi phục mà còn gia tăng phi phàm (?)'.
Dân nhậu Quảng Ngãi thì dùng đẻn nguyên con ngâm rượu và đồn rằng : 'Ai thấy 'yếu' trong người thì ban đêm chỉ cần uống vài ly rượu đẻn, sáng ra chắc chắn 'vợ vừa quét sân vừa hát..(?)'
Nọc độc của Rắn biển được xem là nguy hiểm nhất trong tất cả loại nọc từ giới sinh vật, đã gây ra những trường hợp chết người không thể cứu kịp..
Vài đặc tinh sinh học chung :
Đẻn hay Rắn biển thuộc nhóm động vật có nọc độc, thân có những đặc điểm và cấu tạo giúp chúng thích nghi với đời sống ở biển. Thân thường nhỏ, thuôn dài, trung bình 1-2m, có vẩy, dẹt một bên ở phần sau; đuôi hoàn toàn dẹt như một mái chèo.
Đầu rắn biển nhỏ, có phủ các phiến sừng ; lỗ mũi nằm phía trên miệng có nắp đậy để ngăn không cho nước lọt vào khoang mũi. Mắt nhỏ và tròng mắt tròn. Khác hẳn với cá là đẻn không có mang lọc nên phải ngoi lên mặt nước để thở. Răng nanh ở hàm trên có nọc độc. Nọc rất độc gây chết người. Hàm có thêm một số răng nhỏ (từ 5-18 chiếc) sắp xếp tiếp theo nanh, số răng hàm này được xem là một trong những yếu tố để phân loại đẻn.
Nhóm rắn biển 'chỉ sinh sống ngoài khơi' có vẩy bụng thu nhỏ khiến chúng hầu như không thể di chuyển trên cạn, chỉ một loài duy nhất Laticauda là còn giữ nguyên trạng thái vảy bụng lớn và đây là loài rắn biển duy nhất có thể sinh hoạt trên cạn..
Cấu tạo nội tạng của rắn biển cũng có nhiều thay đổi để chúng thích nghi với môi trường sống : phổi lớn và khá dài, kéo đến gần đuôi, để có thể tạo thành một phao nổi, và có thể dùng như một khoang chứa không khí giúp rắn biển lặn được lâu hơn.
Đa số rắn biển có khả năng thở được qua da, đây là sự kiện 'lạ' đối với giới bò sát vì da thường dày và có vẩy, tuy nhiên rắn biển có thể trao đổi khoảng 20% lượng oxy cần thiết qua da để có thể ở dưới nước lâu. Cũng như các sinh vật trên cạn, thích ứng với đời sống nơi biển, rắn biển đưa vào cơ thể nhiều muối hơn (do thức ăn và nước biển) : động vật có vú có khả năng loại muối qua đường nước tiểu, nhưng nơi chim và bò sát, thận quá nhỏ để loại được lượng muối quá cao : chim penguins loại muối qua các hạch nơi mũi, rùa có hạch nước mắt và rắn biển có hạch dưới lưỡi giúp chúng tống xuất muối thứa.
Rắn biển sinh hoạt trong cả ngày lẫn đêm, tuy bơi nhanh nhưng chúng hầu như bất động khi bị bắt lên bờ, không thể cuộn tròn như rắn đất, rắn biển có thể lặn sâu đến 300m. Đa số ăn cá, nhất là lươn; lươn biển khi bị cắn, thân cứng đơ và chết sau vài giây. Mỗi loài rắn biển thường 'chọn riêng' một vài loài cá mà chúng ưa thích nhất, có loài lại chỉ ăn 'trứng cá'..
Rắn biển đẻ con, rắn mới sanh tương đối lớn, có khi thân dài bằng 1/2 thân mẹ. Loài duy nhất đẻ trứng trên cạn là Laticauda.
Vùng phân bố của rắn biển giới hạn : chỉ trong các khu vực nước ấm áp (từ 68 đến 92 độ F = 20 đến 33 độ C) của Ấn độ dương và vùng phía Tây Thái bình dương và một số loài (khoảng 32) có mặt nơi vùng phía Bắc Úc. Rắn biển không có mặt tại Đại Tây dương, và không gặp dọc hai bờ đại dương của Hoa Kỳ (một vài loài có thể gặp quanh vùng biển Hawaii). Tại vùng biển Việt Nam có khoảng 24 loài.
Theo các nhà sinh vật học : Có khoảng 7 chi rắn biển với 62 loài khác nhau.
Vài loài Đẻn đáng chú ý :
- Vùng biển Việt Nam : Dọc duyên hải Việt Nam, có một số loài Đẻn như :
Đẻn cơm : Lapemis hardwickii thuộc họ Hydrophiidae
Tên Anh-Mỹ : Spine-bellied Sea snake
Đẻn cơm thân dầy, dài khoảng 1m. Đầu khá rộng, màu vàng-lục nhạt đến đen; có khi có một vệt vàng lục chạy ngang qua mõm. Nanh độc dài khoảng 3.3 mm , lượng chất độc phóng ra khi cắn khá cao, gấp 2 lần lượng đủ gây chết người. Thân có vẩy hình 4 cạnh hay 6 cạnh không đều xếp kề nhau. Vẩy bụng phân biệt rõ hơn các vẩy phần trước thân. Lưng màu xanh nhạt hay vàng-lục, có 35-50 vạch ngang cũng màu từ vàng xanh đến xanh đậm, những vạch này có thể bao quanh thân để tạo thành vòng. Bụng màu trắng nhạt có khi có những đường nhỏ màu đậm. Đẻn cơm trưỏng thành có khi toàn thân chỉ một màu xanh olive hay xám nhạt. Đẻn cơm đẻ con hàng năm, giao phối trong các tháng 5-7, đẻ trong các tháng 8-9, con mái di chuyển vào vùng nước cạn nơi cửa sông để tìm nơi ẩn nấp khi đẻ con, mỗi lứa từ 3-8 con.
Đẻn cơm sống nơi cửa sông, gần bờ độ sâu dưới 70m. Chúng ăn nhiều loại mồi (cá và mực) khác nhau, ít lựa chọn hơn các loài đẻn khác.
Vùng phân bố của đẻn cơm trải rộng tại các vùng biển ấm áp : từ vùng Vịnh Bengal (Ấn độ) sang đến vùng biển Nhật và về phia Nam, cho đến Bắc Úc. Tại Việt Nam, đẻn cơm có mặt tại cả hai miền Nam-Bắc..
Đẻn khoanh : Hydrophis cyanocinctus thuộc họ Hydrophiidae
Tên Anh-Mỹ : Annulated sea snake, Blue-banded sea snake
Pháp : Hydrophide à bandes bleues.
Đẻn khoanh có thể dài đến 2.75 m (được xem là loài rắn biển co thân dài nhất) , thân phía trước không quá mảnh, dẹp hai bên về phía đuôi. Vẩy thân có gờ nổi, có khi có 2-3 mấu lớn; các vẩy thân xếp hơi đè lên nhau. Thân đẻn khoanh màu trắng nhợt, xanh nhạt hay vàng-lục; khoanh có thể bao vòng trọn thân hay chỉ đến hai bên bụng. Đầu đẻn trưởng thành màu vàng-lục, vàng nhạt hay đỏ, đẻn nhỏ có vệt hình móng ngựa nơi đầu.
Đẻn khoanh sinh sống ở biển, nhưng có khả năng bò trên cạn, đầu có thể ngóc khỏi mặt đất. Thực phẩm chính là lươn hay cá có thân thuôn dài..
Vùng phân bố rộng : từ vịnh Ba tư qua vùng biển Mã Lai đến biển Nhật. Tại Việt Nam, đẻn khoanh gặp trong vùng Vịnh Bắc Việt, dọc duyên hải xuống đến Vũng Tàu.
Đẻn mỏ : Enhydra schistosa, họ Hydrophiidae
Tên Anh-Mỹ : Beaked sea snake, Hook-nosed sea snake, Valakadyn sea snake.
Đẻn mỏ dài 1- 1.4 m, nặng đến 2 kg. Thân hình ống dẹp về phía đuôi. Mắt to, đường kính gần bằng khoảng cách từ bìa mắt tới bìa miệng. Mõm nhô ra phía trước và nơi đầu mõm có vẩy lớn, bờ dưới của vẩy cong, hình dạng như một cái mỏ. Hàm miệng có thể mở khá rộng để nuốt các con mồi lơn hơn chúng. Nanh độc chỉ dài khoảng 4 mm, tiếp theo nanh là 3-4 răng hàm. Thân có lưng màu xám, có những vòng xậm hay đen, nhưng vòng có thể mờ nhạt để lưng hầu như xám hoàn toàn; Bụng trắng nhạt.
Đẻn mỏ sống tại vùng ven biển, cửa sông nơi có đáy bùn hay cát, có thể lên cạn. Tuy đẻn mỏ ăn nhiều loài cá nhỏ và tôm nhưng thích nhất là catfish. Đẻn sinh hoạt cả ngày lẫn đêm, có thể lặn xuống sâu đến 100m và ở dưới nước đến 5 giờ mới cần trồi lên lại.
Dựa trên liều LD50 (liều độc tố gây chết 50% số chuột thử nghiệm) thì nọc của đẻn mỏ được xếp vào hạng mạnh nhất trong tất cả mọi loài rắn (kể cả rắn đất) mạnh hơn nọc rắn hổ mang từ 4 đến 8 lần. Liều 1.5 mg nọc đủ giết chết một người. Đẻn mỏ gây ra khoảng 90% các trường hợp chết do rắn biển cắn.
Phân bố : Vùng biển Ấn độ, Thái Lan, Indonesia..Tại Việt Nam gặp tại vùng biển phía Nam : từ Ninh Thuận xuống đến Vịnh Thái Lan.
Đẻn vết : Hydrophis ornatus, họ Hydrophiidae
Tên Anh-Mỹ : Ornate sea snake. Pháp : Hydrophide orné
Đẻn vết dài 1-1.5m. Thân hình trụ. Đầu to màu vàng lục. Lưng màu xám nhạt hay vàng lục nhạt, có khi trắng nhợt. Trên lưng có những dải ngang lớn, xậm hay những vết hình thoi phân cách bởi những khoảng hẹp; bụng màu vàng nhạt. Vẩy lưng ở phía sau thân có hình 6 cạnh, có gờ hay mấu lồi. Vẩy có thể xếp xen kẽ hay hơi tỳ lên nhau. Vẩy bụng to, có thể phân biệt rõ với các vẩy thân.
Đẻn vết sinh sống ngoài biển khơi, bơi khá nhanh, ăn cá nhỏ (có thể là loài được gọi là đẻn rồng tại vùng Quảng Bình). Phân bố tại các vùng biển từ Vịnh Ba tư sang vùng quanh đảo Riukiu, Taiwan xuống đến Bắc Úc. Tại Việt Nam, thường gặp trong vùng vịnh Bắc Việt.
Đẻn lục hay Đẻn xanh : Thalassophina viperina
Tên Anh-Mỹ : Viperine sea snake. Pháp : Thalassophines
Thân dài tối đa khoảng 1m. Đầu ngắn, thân màu xanh giống rắn lục trên đất. Vảy bụng phần gần đầu khá to, và thu nhỏ rất nhiều nơi phần đuôi.
Phân bố rộng từ vùng Vịnh Ba Tư sang đến vùng biển Indonesia, tại VN thường gặp trong vùng biển Đồng Hới, Nha Trang..
Đẻn bùn hay đẻn sình : Laticauda laticaudata thuộc họ Laticaudinae.
Tên Anh-Mỹ : Black-banded sea krait. Pháp : Plature à bandes.
Đây là loài đẻn có hình dạng giống rắn đất, dài khoảng 1.1 m, săn mồi ban đêm ngoài khơi : ăn lươn biển, mực nhưng đẻ trứng trên cạn. Tuy nọc khá độc nhưng chúng sống ẩn và it khi tấn công người.
Nọc độc của Rắn biển :
Nọc độc của Đẻn được các nhà nghiên cứu ước lượng là mạnh hơn nọc của rắn hổ mang đến 50 lần
Nọc rắn, nhìn chung, là một hỗn hợp protein phức tạp, đa số có hoạt tính sinh học rất mạnh kiểu các phân hóa tố (enzym), tuy nhiên phần yếu tố gây tử vong lại là các protein không thuộc loại enzyme (nonenzymatic) và có phân tử lượng rất nhỏ. Có rất nhiều nghiên cứu về tinh cách độc của nọc một cách toàn bộ, nhưng chỉ có một số ít chú trọng vào các yếu tố 'đặc biệt' gây chết người và vào các đặc tính dược lực học.
Các enzym, loại protein ly trích được từ nọc rắn gồm: transaminase, hyaluronidase, L-amino acid oxidase, phosphatidase, cholinesterase, anticholinesterase, lecithinase A, ribonuclease, desoxyribonuclease, phosphomonoesterase, phos phodiesterase, 5'-Nucleotidase, ATPase, proteinase, DPNase và DPN-pyrophosphatase.
Nọc độc của từng loài rắn có thể chứa từ 5 đến 15 loại enzym khác nhau kể trên, thêm vào đó từ 3 đến 12 loại protein nonenzy matic, polypeptides và 6 (hoặc hơn nữa) hợp chất có hoạt tính sinh học.
Do tính cách 'tổng hợp' và phức tạp trên nên hoạt tính sinh học của nọc rắn có thể gây nguy hại toàn diện cho cơ thể nạn nhân : như tác động trên hệ tim-mạch, hệ máu-huyết, hệ hô hấp và hệ thần kinh; các hoạt tính này còn có thể có thêm tinh cách 'cộng hưởng' hoặc 'đối nghịch' cho cơ thể và tạo ra các phản ứng khó đoán trước được..
Các trường hợp bi rắn biển cắn (ngư dân VN gọi là bị nổ) thường xẩy ra khi người tắm biển hay bắt cá giẫm phải rắn, vết thương sẽ tại chân, và khi ngư dân lựa cá, vết căn ở ngay tại ngón tay.. Nạn nhân bị rắn biển cắn thường có một số triệu chứng tiêu biểu, xẩy ra chậm sau khi bị cắn từ 20 phút và có khi cả giờ, như cứng tròng mắt, kích động, lo âu, đau nhức, con ngươi nở rộng, lưỡi tê giật, mạch yếu và không đều, cứng bắp thịt, tê liệt bắp thịt khởi đầu từ chân rồi di chuyển dần lên thân rồi đến cổ. Một trong những đặc điểm 'chuyên biệt' nhất là cứng hàm, không nói được và không nuốt được. Các triệu chứng sau cùng là tình trạng chung nặng thêm, da xanh tái, lẫn lộn, suy hô hấp, hôn mê và chết..
Vài hợp chất đặc biệt ly trích tử nọc rắn biển :
Từ nọc của Laticauda semifasciata : Erabutoxins a và b
Từ nọc của Laticauda laticaudata : Laticotoxin a
Các độc tố này đều là những protein, chứa khoảng 61 amino acid, phân tử lượng trong khoảng 6760 đến 7430. Độc tố có tác động chặn các sự dẫn truyền luồng thần kinh và ức chế sự co thắt của bắp thịt ruột cùng nơi ếch thử nghiệm khi gây co thắt bằng acetylcholine. Cơ chế hoạt động được xem là tương tự như curare. Erabutoxins được xếp vào vào loại chất độc gây hại hệ thần kinh (neurotoxins) và tế bào (cytotoxins)
Từ nọc của Lapemis hardwickii : Harobin
Độc tố thuộc loại serine protease có khả năng ly giải fibrin. Khi chích cho chuột thử nghiệm, Harobin gây hạ huyết áp do khả năng phân cắt men angiotensin I và gây phóng thích bradykinin. Harobin được xem là một defibrase và đang được nghiên cứu để làm thuốc trị máu đóng cục và thuốc hạ huyết áp (FEBS Letter Số 581-2007).
Từ nọc của Laticauda semifasciata : 
Nọc có chứa một hợp chất phức tạp : LSIII một độc tố có chuỗi protein dài, gây độc trên hệ thần kinh.(Biochemistry Số 35-1996)
Liều LD50 của vài loài rắn biển :
Vài điều cần lưu ý về LD50 : Liều LD50 được định nghĩa là liều gây chết 50% số chuột thử nghiệm, trong vòng 24 giờ sau khi chich chuột nặng trung bình 20 gram. Tuy nhiên phản ứng nơi chuột chưa hẳn sẽ xẩy ra như nơi người. Lượng nọc độc khi rắn tiết ra lúc cắn cũng là yếu tố rất quan trọng, chưa kể phản ứng của từng người khi bị rắn cắn..Độ sâu của vết cắn, xâm nhập qua da cũng quyết định mức độ trầm trọng..
Các số liệu sau được trích từ : Australian Venom and Toxin database và Animal toxins ( F. Russell & P. Saunders)
SC = Liều khi chích dưới da(mg/kg)
IV = Liều khi chích qua đường tĩnh mạch(mg/kg)
IM = liều khi chích qua bắp thịt (mg/kg)
Y = Số lượng nọc độc của rắn (mg)
Loài rắnliều SCliều IMliều IVY
Hydrophis cyanocinctus (Đẻn khoanh)0.464 0.4565.0-8.0
H. elegans0.260.21 9-24.0
H. melanosoma0.1110.082  
H. ornatus (Đẻn vết) 0.122.2 
Lapemis hardwicki  (Đẻn cơm)0.541  0.8 
Enhydra schistosa (Đẻn mỏ)0.1125 0.267.7-9.0
Laticauda laticauda  0.163 
L. semifasciata 0.273 0.342-14.0
Đẻn : món nhậu, vị thuốc dân gian
Tại một số quốc gia Á đông như Nhật, Hàn, Trung Hoa đẻn hay rắn biển được xem là một thực phẩm bổ dưỡng và là một vị thuốc trong Dược học cổ truyền..
Đẻn : món ăn 
Tại Việt Nam, tuy đẻn có mặt suốt dọc các vùng ven biển, từ Bắc xuống Nam, nhưng có lẽ đẻn của vùng Đồng Hới (Quảng Bình) được xem là 'đặc biệt' nhất.
Thịt đẻn được chế biến thàh những món ăn tương tự như thịt rắn đất như xào lăn, nấu cháo.. Tại Quảng Bình món Đẻn ram được mô tả là thịt đẻn sau khi làm sạch, được bằm nát, trộn gia vị rồi chiên và ăn với bánh tráng theo kiểu phía Nam như 'lươn xúc bánh tráng'..
Máu đẻn : Đẻn treo từ đầu, cắt chút sau đuôi đẽ lấy máu trực tiếp vào rượu được gọi là món 'huyết xà', uống nhâm nha với món đẻn ram. Nếu mổ bụng đẻn, lấy thêm mật bỏ vào chung với rượu đã pha máu thì sẽ là 'huyết xà đởm'
Tại Nhật : nhất là tại Okinawa, món rắn biển hay Ibaru rất được ưa chuộng, dưới các dạng chiên hay xông khói
Thành phần dinh dưỡng :
Thành phần acid amin trong protein của thịt rắn biển gần như tương tự với thịt rắn hổ mang, có thêm 3 loại acid amin không có trong rắn đất là arginin, glycin và hydroxyprolin.
Trong mật rắn có các acid mật, cholesterin, palmitic acid, stearic acid, cholic acid..
Đẻn : vị thuốc
Theo Dược học cổ truyền, thịt đẻn hay Hải xà nhục có vị mặn, tính ấm với các tác dụng bổ dưỡng , tăng trọng và chống sưng. Thịt và xương rắn được xấy khô, tán thành bột để uống. Máu đẻn hay Hải xà huyết là phương thuốc trị đau lưng và nhức xương. Mỡ được dùng để thoa trị phỏng.
Rắn biển ngâm rượu là dạng thường dùng để chữa các chứng thấp khớp, thoái hoá cột sống và đau thần kinh tọa..Tại Việt Nam, loại rượu ngâm phối hợp 3 loài đẻn : đẻm cơm, đẻn khoanh và đẻn vết được xem là 'tốt' nhất và công hiệu nhất để trị đau lưng, nhức mỏi. Ngoài ra theo quan niệm dân gian thì nên ngâm một 'cặp' đẻn (đực và cái) chung với mật thì 'tác dụng' sẽ mạnh hơn.
Tài liệu sử dụng :
Sea Snakes (A R Radmussen)
Từ điển Động vật và Khoáng vật làm thuốc tại Việt Nam (Võ văn Chi)
Venomous & Toxic Marine Life of the World (Patricia Cunningham & Paul Goetz)
Dangerous Sea Creatures (Thomas Helm)

Tiến sĩ Dược Khoa Trần Việt Hưng

TAGS: Rắn biển, Đẻn, Laticauda, Lapemis hardwickii, Hydrophiidae, Annulated sea snake, Blue-banded sea snake, Enhydra schistosa, Hydrophiidae, Hydrophide à bandes bleues, Beaked sea snake, Hook-nosed sea snake, Valakadyn sea snake, Thalassophina viperina, Black-banded sea krait, Plature à bandes, Nọc độc Rắn biển, Proteinase, Transaminase, Hyaluronidase, L-amino acid oxidase, Phosphatidase, Cholinesterase, Anticholinesterase, Lecithinase A, Ribonuclease, Desoxyribonuclease, Phosphomonoesterase, 5'-Nucleotidase, Phosphodiesterase, ATPase, DPNase, DPN-pyrophosphatase, Nọc Laticauda semifasciata : Erabutoxins a và b, Nọc Laticauda laticaudata : Laticotoxin a, Harobin, Laticauda semifasciata, Tran Viet Hung

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươ...

DANH SÁCH 20 LOÀI CÁ CÓ ĐỘC TỐ MẠNH NHẤT

 Ăn cá và ngộ độc thực phẩm rất thường xảy ra ở nước ta. Một số người ăn cá nóc và chết. Một số ăn cá ngừ và bị ngộ độc thực phẩm tập thể phải nhập viện. Một vài người bị cá độc chích. Một số người dị ứng với một vài con cá. Tất nhiên, ngộ độc thực phẩm có nhiều nguyên nhân, từ chính con cá, đến cả quá trình bảo quản, chế biến của những người buôn bán cá và cả những người nấu nướng. Phòng bệnh hơn chữa bệnh, những gì các bạn không chắc chắn thì nên tránh xa. Chúng tôi xin lược dịch về 20 loài cá có độc tố mạnh nhất từ chính bản thân con cá. Có những con cá rất đẹp như cá sư tử, có những con xấu xí, nhưng cả 20 con trong danh sách này đều có điểm chung là có chất độc.    Không phải mọi loài cá đều có thể ăn được. Có những loài cá không thích hợp để ăn. Có nhiều cá có độc hơn cả rắn độc. Có ít nhất 1.200 loài cá độc trên thế giới, như...

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng...