Chuyển đến nội dung chính

Tôm càng xanh-Macrobrachium rosenbergii

Tôm càng xanh

: Giant freshwater prawn
: Macrobrachium rosenbergii
Giant river prawn
PHÂN LOẠI
Arthropoda
Decapoda
Macrobrachium
Macrobrachium rosenbergii De Man, 1879
Tôm càng xanh
ĐẶC ĐIỂM
Hình thái của tôm càng xanh được nhiều tác giả mô tả như Holthius; Đức và ctv. (1988 và 1989); Forster và Wickins 1972. Tuy nhiên, ở nước ta trong ao nuôi hay trong khai thác tự nhiên thì xuất hiện 2 dạng tôm càng mà được gọi là tôm càng xanh và tôm càng lửa.
Vòng đời của tôm càng xanh có có 4 giai đoạn rõ ràng là trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành. Tôm trưởng thành sống ở vùng nước ngọt, thành thục và giao vi trong nước ngọt, nhưng sau đó chúng di cư ra vùng nước lợ (có độ mặn 6-18%o) và ấu trùng nở ra, sống phù du trong nưóc lợ. Khi hoàn thành 11 lần lột xác để thành tôm con thì tôm di chuyển dần vào trong vùng nước ngọt.
Vòng đời tôm càng xanh
Vòng đời tôm càng xanh
Trong tự nhiên, tôm thành thục và giao vĩ xảy ra hầu như quanh năm. Tùy từng nơi mà chỉ tập trung vào những mùa chính, ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, có hai mùa tôm sinh sản chính là khoảng tháng 4-6 và tháng 8-10. Tôm cái thành thục lần đầu ở khoảng 3-3.5 tháng kể từ hậu ấu trùng 10-15 ngày tuổi (PL10-15). Kích cỡ tôm nhỏ nhất đạt thành thục được ghi nhận là khoảng 10-13cm và 7.5g.  Tuy nhiên, tuổi thành thục và kích cỡ thành thục của tôm còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như môi trường và thức ăn.
Giống như các loài giáp xác khác, sinh trưởng của tôm càng xanh không liên tục, có sự gia tăng kích thước nhanh sau mỗi lần lột xác. Tốc độ sinh trưởng của tôm đực và cái gần như tương đương nhau cho tới khi chúng đạt kích cở 35-50g, sau đó khác nhau rõ theo giới tính, tôm đực sinh trưởng nhanh hơn tôm cái và đạt trọng lượng có thể gấp đôi tôm cái trong cùng một thời gian nuôi. Tôm cái khi bắt đầu thành thục (khoảng 40g, hay 140-150cm chiều dài) thì sinh trưỏng giảm vì nguồn dinh dưỡng chủ yếu tập trung cho sự phát triển của buồng trứng. Một hiện tượng thường thấy trong nuôi tôm càng xanh là sự phân đàn khá rõ kể cả trong cùng một nhóm giới tính.  Kích thưóc của tôm có thể đạt 40-50 g trong thời gian 4-5 tháng nuôi. Kích cở tôm lớn nhất tìm thấy ở Ấn độ là 470 g, Thái lan 470 g và Việt nam 434 g.
Chu kỳ lột xác của tôm tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng, tình trạng sinh lý, điều kiện dinh dưỡng, điều kiện môi trường,.... Tôm càng xanh tuân theo qui luật chung của tôm là tôm nhỏ chu kỳ lột xác ngắn hơn tôm lớn. Chu kỳ lột xác của tôm trình bày trong bảng:
Thời gian lột xác của tôm càng xanh
Trọng lượng (g/con)
Chu kỳ lột xác (ngày)
2-5
6-10
11-15
16-20
21-25
26-35
36-60
9
13
17
18
20
22
22-24
Cơ chế lột xác của tôm càng xanh giống như các loài giáp xác chân đốt khác. Khi tôm tích lũy đầy đủ chất dinh dưỡng, năng lượng và tới chu kỳ lột xác thì lúc đó lớp vỏ mới hình thành dần dưới lớp vỏ cũ, lớp này rất mỏng, mềm và co giãn được. Khi lớp vỏ mới này phát triển đầy đủ thì tôm tìm nơi vắng và giàu oxy để lột vỏ. Khi lớp võ cũ lột đi, vỏ mới còn mềm và co giãn được và dưới áp lực của khối mô cơ lâu ngày bị ép bởi lớp vỏ cũ, cơ thể tôm bấy giờ giãn nở, lớn lên nhiều và khác hẳn với lúc trước lột xác. Lớp vỏ mới cứng dần sau 3-6 giờ và tôm sẽ hoạt động lại bình thường sau đó. Quá trình lột vỏ của tôm thực hiện rất nhanh chỉ trong vòng 3-5 phút. Khởi đầu tôm ngưng hết mọi hoạt động bên ngoài, uống cong mình gây nên áp lực ngày càng tăng phá vở lớp màng giữa giáp đầu ngực và vỏ tạo nên một khoảng hở ngang lưng. Tôm lúc này co mình thành hình chữ U, áp lực bên trong cơ thể tăng lên, và dần dần tôm thoát toàn bộ cơ thề qua khoảng hở ở lưng. Sau mỗi lần lột xác, cơ thể tôm tăng lên 9-15% trọng lượng thân.
PHÂN BỐ
Tôm càng xanh phân bố ở tất cả các thủy vực nước ngọt (đầm, ao, sông, rạch, ruộng lúa...) và kể cả ở vùng nưóc lợ cửa sông. Trên thế giới tôm phân bố ở khu hệ Ấn Độ Dương và Tây Nam Thái Bình Dương. Ở Việt nam, tôm càng xanh phân bố chủ yếu các tỉnh Nam bộ đặc biệt là các vùng nước ngọt và vùng cửa sông ven biển ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
TẬP TÍNH
Tôm càng xanh trưởng thành là loài ăn tạp và ăn tầng đáy, nó sử dụng nhiều loại động vật khác nhau để làm thức ăn từ nhuyễn thể, giáp xác đến  tảo sợi và kể cả chất thối rữa hữu cơ, và tôm cũng ăn thức ăn viên công nghiệp. Tôm tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác, chúng dùng râu quét ngang, dọc phía trước hưóng di chuyển. Khi tìm gặp thức ăn chúng dùng chân ngực thứ nhất kẹp lấy thức ăn, đưa chân hàm và từ từ đưa vào miệng. Tôm có hàm trên và hàm dưới cấu tạo bằng chất kitin nên nghiền được các loại thức ăn cứng như nhuyễn thể... Trong quá trình tìm thức ăn tôm có tính tranh giành cao, cá thể nhỏ thường tránh xa đàn hay khi tìm được một miếng thức ăn thì di chuyển đi nơi khác, trong khi đó con lớn vẫn chiếm chỗ và đánh đuổi tôm nhỏ. Ngoài ra, tôm còn ăn đồng loại khi chúng yếu (ví dụ như mới lột) hay khi thiếu thức ăn.
Nhiệt độ: tôm càng xanh là loài thích nghi với biên độ nhiêt độ rộng từ 18-34oC, nhiệt độ tốt nhất là 26-31oC, ngoài phạm vi nhiệt độ nay tôm sẽ sinh trưởng chậm hay khó lột xác.
pH: mức pH thích hợp nhất cho tôm càng xanh là 6.5-8.5, ngoài khoảng nay tôm có thể sống được nhưng sinh trưởng kém, pH dưới 5 tôm hoạt động yếu và chết sau 6 giờ. Khi gặp môi trường có pH thấp tôm sẽ nổi đầu, dạt vào bờ, mang đổi màu, mang và các phụ bộ bị lở loét, tôm bơi lội chậm chạp và chết sau đó.
Oxy hòa tan: môi trường phải có oxy hòa tan > 3 mg/l, dưới mức nầy tôm hoạt động yếu, tập trung ven bờ, nổi đầu và chết sau vài giờ. Nếu hàm lượng oxy vượt quá mức bảo hòa cũng gây tác hại đến tôm nhất là quá trình hô hấp (chứa nhiều khí trong hệ tuần hoàn, cản trở lưu thông máu).
Anh sáng: Tôm thích sánh sáng vừa phải, cường độ thich hợp nhất là 400 lux. Anh sáng cao sẽ ức chế hoạt động của tôm, do vậy ban ngày có ánh sáng cao tôm xuống đáy thủy vực trú ẩn, ban đêm hoạt động tìm mồi tích cực. Tôm không ưa ánh sáng có cường độ cao nhưng lại có tính hướng quang vào ban đêm, khi có luồng sáng thì tôm sẽ tập trung lại, và tôm lớn có tính hướng quang kém hơn tôm nhỏ.
Nồng độ muối: Tôm thích hợp nồng độ muối từ 0-16%o, tôm trưỏng thành sinh trưởng tốt ở vùng cửa sông ven biển.  
SINH SẢN
Có thể phân biệt tôm đực và cái dễ dàng thông qua hình dạng bên ngoài của chúng. Tôm đực có kích cỡ lớn hơn tôm cái, đầu ngực to hơn và khoang bụng hẹp hơn. Đôi càng thứ hai to, dài và thô. Ở con đực còn có nhánh phụ đực mọc kế nhánh trong của chân bụng thứ hai. Nhánh phụ đực bắt đầu xuất hiện ở giai đoạn ấu niên khi tôm đạt kích cỡ 30 mm và hoàn chỉnh khi tôm đạt 70 mm. Ngoài ra, ở giữa mặt bụng của đốt bụng thứ nhất còn có điểm cứng.
Tôm cái thường có kích cỡ nhỏ hơn tôm đực, có phần đầu ngực nhỏ và đôi càng thon. Tôm có 3 tấm bụng đầu tiên rộng và dài tạo thành khoang bụng rộng làm buồng ấp trứng. Cơ quan sinh dục trong của con đực gồm một đôi tinh sào, một đôi ống dẫn tinh và đầu mút.  Đôi tinh sào ngoằn ngoèo nằm giữa lưng của giáp đầu ngực được nối với ống dẫn tinh chạy từ trước tim dọc sang hai bên viền sau của giáp đầu ngực và đổ vào đầu mút nằm ở đốt coxa của chân ngực 5.
Phân biệt tôm càng xanh đực và cái:
Đặc điểmTôm càng xanh đựcTôm càng xanh cái
Kích cỡLớn hơn và đầu ngực to hơnNhỏ hơn và đầu ngực nhỏ hơn
CàngĐôi càng thứ 2 to, gồ ghề và nhiều gaiNhỏ và nhãn hơn
Lỗ sinh dụcHiện diện dưới gốc của chân ngực thứ năm và có nắp đậyHiện diện dưới gốc của chân ngực thứ ba, có màng mỏng bao phủ.
Phụ bộ giao vĩXuất hiện giữa nhánh trong và nhánh phụ của chân bụng thứ 2Không có
BụngMặt bụng của điểm bụng thứ nhất có điểm cứng ở giứaTấm bụng thứ 1, 2, 3  dài và nở rộng => buồng ấp trứng
Lông tơ sinh dụcKhông cóXuất hiện nhiều trên chân ngực, chân bụng của tôm trưởng thành.
Tuyến androgenicDãy tế bào dính vào vùng gần cuối của ống dẫnKhông có
Chiều dài và kích cỡ thành thụcDài 17.5 cm, trọng lượng trung bình 35 gChiều dài trung bình 15 cm, trọng lựợng 25 g.
Thành thục giao vĩ, đẻ trứng và ấp trứng của tôm
Tôm thành thục và giao vĩ xảy ra quang năm. ĐBSCL tôm sinh sản 4-6 và tháng 8-10. Tôm cái thành thục lần đầu khoảng 3-3.5 tháng (từ PL10-15) Kích cỡ nhỏ nhất tôm thành thục 10-13 cm và 7.5 g. Sự thành thục phụ thuộc nhiều vào môi trường và thức ăn.
Quá trình thành thục gồm 4 giai đoạn ( 14-20 ngày):
- Giai đoạn 1: chưa thành thục, buồng trứng nhỏ trong suốt.
- Giai đoạn 2: chớm thành thục, buồng trứng chiếm 1/4 – 1/2 chiều dài khoang giáp đầu ngực.
- Giai đoạn 3: thành thục, buồng trứng chiếm 3/4  chiều dài giáp đầu ngực.
- Giai đoạn 4: chín muồi, buồng trứng chiếm toàn bộ khoang giáp đầu ngực.
Khi buồng trứng ở giai đoạn 4, tôm cái lột xác tiền giao vĩ => tiết ra hormol kích thích tôm đực tìm đến. Sau khi lột xác 1-22 giờ, thường 3-6 giờ tôm bắt đầu giao vĩ. Quá trình giao vĩ chia làm 4 giai đoạn:
1. giai đoạn tiếp xúc
2. giai đoạn tôm đực ôm giữ tôm cái
3. giai đoạn tôm đực trèo lên lưng tôm cái
4. giai đoạn cuối (quá trình giao vĩ xảy ra)
Quá trình giao vĩ xảy ra vào ban đêm ( 20-35 phút). Sau khi giao vĩ tôm đực bảo vệ tôm cái khỏi bị tôm khác tấn công. Sau khi giao vĩ khoảng 2-5 giờ, có khi 6-24 giờ, tôm cái đẻ trứng. Tôm cái thường đẻ trứng ở tầng giữa và tầng đáy.
Trong quá trình đẻ trứng trứng được thụ tinh khi đi qua túi chứa tinh. Trứng dính vào các lông tơ ở đôi chân bụng thứ 4, 3, 2 và thứ 1. Thời gian đẻ 10-60 phút thường 15-25 phút. Không nên làm sốc tôm cái trong quá trình đẻ trứng. Sức sinh sản tương đối của tôm cái 500-1000 trứng/g tôm cái
Tôm cái phát dục và đẻ lại sau 16-45 ngày. Chúng có thể tái phát dục và đẻ lại 5-6 lần, sức sinh sản cũng thay đổi theo các lần đẻ của tôm. Trong quá trình ấp tôm dùng chân bụng quạt cung cấp oxy cho trứng, dùng chân ngực loại trứng hư hay vật lạ dính vào trứng. Thời gian ấp kéo dài 15-23 ngày.
Phát triển phôi
Trứng mới đẻ có hình elip, 0.6-0.7 mm. Phân cắt đầu tiên sau 4 giờ, phân chia tiếp theo khoảng 1-3 giờ, thời gian phân cắt sẽ ngắn dần theo các lần phân chia tiếp theo. Sự phân chia sẽ hoàn thành sau 24 giờ.
Theo sự phát triển phôi màu sắc của trứng sẽ chuyển từ màu vàng nhạt => vàng cam => trứng xám => khi nở trứng có màu xám đen.
Khi nở tôm mẹ cử động chân bụng liên tục để thả ấu trùng ra ngoài.
Phát triển của ấu trùng
- Đặc điểm của ấu trùng mới
- Sống phù du, nước lợ 6-16%o.
- Hướng quanh mạnh
- Ấu trùng bơi lội chủ động, bụng ngữa, đuôi phía trước.
- Ấu trùng chết sau 3-4 ngày nếu không sống trong nước lợ.
- Ấu trùng ăn liên tục, động vật phù du, giun nhỏ, ấu trùng, động vật thủy sinh
- Ấu trùng trải qua 11 lần lột xác để hình thành hậu ấu trùng
âu trùng tôm càng xanh
Phát triển của hậu ấu trùng
- Postlarvae có hình dạng giống tôm lớn.
- Sống đáy, bám vào nền hoặc giá thể.
- Bắt mồi chủ động.
- Thức ăn côn trùng, thủy sinh, các loại nhuyễn thể nhỏ (sò, mực, tôm cá, xác bả động vật.
- Nhận biết qua những sọc ngang trên carapace, sọc biến mất khi tôm đạt kích cỡ 75-90 mm.
HIỆN TRẠNG
Tôm càng xanh là một trong những đối tượng thủy sản nước ngọt có giá trị kinh tế cao ở Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Sản lượng tôm càng xanh toàn cầu năm 2007 đạt 213.000 tấn, ước tính trị giá hơn 943 triệu đôla Mỹ (FAO, 2009).
Sản lượng tôm càng xanh của Việt Nam đạt khoảng 3.000 tấn vào những năm 90, tăng lên khoảng 10.000 tấn vào năm 2002 (Phương và ctv, 2006). Tôm càng xanh là đối tượng ưu tiên phát triển nuôi trồng của nước ta, chính phủ đề ra mục tiêu phát triển nuôi tôm càng xanh trên diện tích 32.000 ha và đạt sản lượng 60.000 tấn vào năm 2010 (Chính phủ Việt Nam, 1999).

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t

Các loài chim ở Việt Nam

Tên Việt Nam Cu rốc đầu vàng Golden-throated Barbet Tên Khoa Học Megalaima franklinii Tên Việt Nam Gõ kiến vàng lớn Tên Khoa Học Chrysocolaptes lucidus Tên Việt Nam Chim manh Vân Nam Tên Khoa Học Anthus hodgsoni Tên Việt Nam Phường chèo lớn (Hồng Tước) Tên Khoa Học Coracina macei Tên Việt Nam Chim Uyên Ương (Hồng Tước Nhỏ Dalat) Tên Khoa Học Campephagidae tên Việt Nam Chim Ngũ Sắc (Silver-eared Mesia) Tên Khoa Học Leiothrix argentauris Tên Việt Nam Mi lang biang Tên Khoa Học Crocias langbianis King, Tên Việt Nam Khướu mào bụng trắng Tên Khoa Học Yuhina zantholeuca Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Bạc má họng đen ( Black-throated Tit ) Tên Khoa Học Aegithalos concinnus Tên Việt Nam Bạc má bụng vàng Tên Khoa Học Parus monticolus Tên Việt Nam Bạc má rừng hay bạc má mày vàng Tên Khoa Học Sylviparus modestus Tên Việt Nam Trèo cây huyệt h

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng Pháp :  haricot vert , danh pháp khoa học Phaseolus vulgaris , là một giống  đ