Chuyển đến nội dung chính

5 loài cá tiến vua huyền thoại của Việt Nam

Những loài cá quý hiếm, thịt tuyệt ngon này từng "vinh dự" được hiện diện trên bàn tiệc của các vua chúa Việt Nam thời xưa.

5 loài cá tiến vua huyền thoại của Việt Nam
Cá rầm xanh là một loài cá thuộc họ cá chép xuất hiện nhiều tại các sông ngòi ở các tỉnh miền núi phía Bắc và rải rác tại khu vực Bắc Trung Bộ. Đây là một loài cá quý từng được ghi nhận trong sử sách như một sản vật tiến vua nhiều thế kỷ trước. 
 5 loài cá tiến vua huyền thoại của Việt Nam
Loài cá này có xương mềm, thịt ngọt, đặc biệt bộ trứng bùi ngầy ngậy rất hấp dẫn. Không như nhiều loại cá tầm thường chỉ ngon khi có kích cỡ lớn, thịt rầm xanh ngon từ lúc con cá nhỏ như đầu ngón tay cho tới khi “to như quả bom”.
 
5 loài cá tiến vua huyền thoại của Việt Nam
Người dân tại một số bản làng ở miền núi phía Bắc vẫn nuôi cá rầm xanh trong ao nhà như một thói quen truyền thống. Trong khi đó, Nhà nước cũng đã có chương trình bảo tồn và phát triển loài cá này như một hướng đi mới cho nghề nuôi thủy sản nước ngọt. Ảnh: NNVN.
 
 Cá tràu là loài cá thuộc họ cá quả, có khá nhiều ở Việt
Cá tràu là loài cá thuộc họ cá quả, có khá nhiều ở Việt Nam. Tuy nhiên cá tràu ở vùng núi đá vôi Hoa Lư Ninh Bình lại gắn thêm một mỹ danh trong tên gọi, đó là cá tràu tiến vua. Tương truyền, từ thời Vua Đinh Tiên Hoàng, người Ninh Bình đã bắt cá tràu như một sản vật quý để dâng lên đức Tiên Hoàng đế.
 
Cá tràu là loài cá thuộc họ cá quả, có khá nhiều ở Việt
Cá tràu tiến vua cón có tên gọi khác là cá trèo đồi, vì chúng rất khỏe, có khả năng trườn trên đá để trèo lên những điểm cao hơn, như khe nước ven lưng chừng đồi, hồ trên núi, thậm chí là những nguồn nước ven các khe đá cheo leo. Có lẽ do những điểm đặc trưng về môi trường sống mà thịt cá tràu tiến vua rất khác cá tràu thường, ăn rất chắc và thơm.
 
Cá tràu là loài cá thuộc họ cá quả, có khá nhiều ở Việt
Hiện tại cá tràu tiến vua đang được bảo tồn và nhân nuôi rộng rãi ở Ninh Bình. Chúng đã trở thành đặc sản ẩm thực mang đậm dấu ấn lịch sử văn hóa của vùng đất cố đô Hoa Lư văn hiến.
 
Cá tràu là loài cá thuộc họ cá quả, có khá nhiều ở Việt
Cá rô Tổng Trường là loại cá rô sống ở môi trường hang động ngập nước vùng đất Hoa Lư, Ninh Bình. Gọi là cá rô Tổng Trường vì loài cá này được phát hiện thấy ở vùng hang động ngập nước thuộc Tổng Trường Yên, huyện Hoa Lư. Chúng có hình thái giống cá rô đồng, song do sống lâu năm ở vùng đầm lầy, hang động Hoa Lư nên có một số biến dị nhỏ về màu sắc.
 
Cá tràu là loài cá thuộc họ cá quả, có khá nhiều ở Việt
Cá rô Tổng Trường có thịt béo, thơm, dai, ngon, nên được coi là một đặc sản ẩm thực của Ninh Bình từ cách đây trên 1.000 năm. Cùng với cá tràu, cá vua Tổng Trường là “bộ đôi” cá tiến vua nổi tiếng từ thời Đinh – Tiền Lê, đã đi vào văn hóa dân gian với câu khẩu ngữ “Cá rô Tổng Trường, cá tràu tiến vua”.
 
Cá tràu là loài cá thuộc họ cá quả, có khá nhiều ở Việt
Từ năm 2009, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản 1 đã chính thức đưa giống cá rô Tổng Trường và cá tràu tiến vua vào chương trình bảo tồn và phục vụ phát triển du lịch.
 
Cá tràu là loài cá thuộc họ cá quả, có khá nhiều ở Việt
Theo sử tích, cá anh vũ đã được dùng để tiến vua từ thời Hùng Vương thứ ba. Loài cá này, phân bố tại các sông lớn ở các tỉnh miền núi phía Bắc như sông Đà, sông Thao, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm. Chúng có điểm đặc trưng dễ nhận ra là phần miệng loe ra như mũi lợn.  Ảnh: Diễn đàn câu cá.
 
Cá tràu là loài cá thuộc họ cá quả, có khá nhiều ở Việt
Thịt cá anh vũ trắng, quánh chắc và có hương vị thơm ngon đặc biệt. Theo quan niệm dân gian, thịt loài cá này tính mát, có thể chữa một số loại bệnh tính nhiệt. Cặp môi cũng là phần ngon nhất của cá anh vũ vì được cấu tạo từ sụn, tạo cảm giác giòn sần sật khi nhai.
 
Ngày nay, do bị đánh bắt quá mức nên cá anh vũ gần như đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên.
Ngày nay, do bị đánh bắt quá mức nên cá anh vũ gần như đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên.  Tuy vậy, chúng được nuôi sinh sản thành công ở Việt Nam. Dù đã được nuôi nhân tạo nhưng thịt cá anh vũ vẫn rất đắt, khoảng 700.000-1 triệu đồng/kg, vì việc nuôi rất kỳ công, tốn kém và phải mất trên 2 năm mới đạt đủ trọng lượng để thịt.
 
Cá chiên, một loài cá da trơn phân bố chủ yếu tại các dòng sông ở miền núi phía bắc Việt Na
Cá chiên, một loài cá da trơn phân bố chủ yếu tại các dòng sông ở miền núi phía bắc Việt Nam thường được mệnh danh là chúa tể lòng sông vì bản tính hung dữ, khát máu và có thể đạt tới kích thước 70-80kg khi trưởng thành.
 
Cá chiên, một loài cá da trơn phân bố chủ yếu tại các dòng sông ở miền núi phía bắc Việt Na
Thịt cá chiên rất ngon, nhưng loài cá này nổi tiếng nhờ bộ lòng to, dày như dạ dày lợn, giòn sần sật, là đặc sản dùng để dâng lên các bậc vua chúa. Có khi bộ lòng cá lớn đến nỗi có thể làm được vài mâm cỗ. Ảnh: Lao động
 
Cũng như nhiều giống cá đặc sản khác, mặc dù đã bị khai thác cạn kiệt ngoài tự nhiên nhưng cá chiên
Cũng như nhiều giống cá đặc sản khác, mặc dù đã bị khai thác cạn kiệt ngoài tự nhiên nhưng cá chiên  ngày nay đã được nuôi nhân tạo tại một số địa phương ở phía Bắc.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t

Các loài chim ở Việt Nam

Tên Việt Nam Cu rốc đầu vàng Golden-throated Barbet Tên Khoa Học Megalaima franklinii Tên Việt Nam Gõ kiến vàng lớn Tên Khoa Học Chrysocolaptes lucidus Tên Việt Nam Chim manh Vân Nam Tên Khoa Học Anthus hodgsoni Tên Việt Nam Phường chèo lớn (Hồng Tước) Tên Khoa Học Coracina macei Tên Việt Nam Chim Uyên Ương (Hồng Tước Nhỏ Dalat) Tên Khoa Học Campephagidae tên Việt Nam Chim Ngũ Sắc (Silver-eared Mesia) Tên Khoa Học Leiothrix argentauris Tên Việt Nam Mi lang biang Tên Khoa Học Crocias langbianis King, Tên Việt Nam Khướu mào bụng trắng Tên Khoa Học Yuhina zantholeuca Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Khướu mỏ dẹt đầu xám Tên Khoa Học Paradoxornis gularis Tên Việt Nam Bạc má họng đen ( Black-throated Tit ) Tên Khoa Học Aegithalos concinnus Tên Việt Nam Bạc má bụng vàng Tên Khoa Học Parus monticolus Tên Việt Nam Bạc má rừng hay bạc má mày vàng Tên Khoa Học Sylviparus modestus Tên Việt Nam Trèo cây huyệt h

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng Pháp :  haricot vert , danh pháp khoa học Phaseolus vulgaris , là một giống  đ