Chuyển đến nội dung chính

Mô hình nuôi nhông trên cát đạt hiệu quả cao


Mô hình nuôi nhông trên vùng cát ở huyện Thăng Bình và TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam đang bước đầu mang lại hiệu quả, gợi mở một mô hình chăn nuôi độc đáo mới của nông dân vùng cát.
Ông Ngô Văn Thuận, thôn Thanh Tân, xã Tam Thanh, TP.Tam Kỳ có một trang trại nuôi kỳ nhông được nhiều người biết đến. Sau thời gian học hỏi kinh nghiệm từ mô hình nuôi nhông ở vùng cát tỉnh Bình Thuận, cách đây 3 tháng, ông Thuận mạnh dạn đầu tư chuồng trại nuôi nhông. Đầu tiên, ông bỏ ra 10 triệu đồng mua 1.000 con nhông giống và hơn 5 triệu đồng xây 100m2 tường gạch bao kín.
Giống nhông của ông Thuận một nửa là nhông ta và một nửa lai Nhật. Nhông nuôi khoảng 4-5 tháng, có thể xuất bán. Nếu thổ nhưỡng và nguồn thức ăn tốt, một con nhông có thể cho trọng lượng 0,5 - 0,7kg. Thức ăn cho nhông là rau quả các loại. Ông Thuận cho biết: “Các loại thức ăn cho nhông đều tận dụng từ hoa màu. Nhông thời kỳ 1-2 tháng, gần như không tốn kém một đồng mua thức ăn. Nhưng từ tháng thứ ba trở lên, do thúc cho nhông chóng lớn để xuất bán ra thị trường, nên tốn khoảng hơn 10.000 đồng tiền mua thức ăn cho nhông mỗi ngày”.
Theo lời ông Thuận, nhông là giống có khả năng kháng bệnh cao, hoàn toàn phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu ở vùng cát Quảng Nam. Qua theo dõi, nhông ở vùng cát Tam Thanh sinh trưởng, chóng lớn không thua gì “xứ sở” nhông Bình Thuận. Hiện tại, 1kg nhông bán ra thị trường có giá dao động từ 250.000-300.000 đồng. Dù nhông của ông Thuận mới 3 tháng tuổi, nhưng có con đã đạt khoảng 2,5 lạng. Ông Thuận nhẩm tính: khoảng 5 - 6 con nhông cho thịt 1kg, thì sẽ có lãi gấp đôi. “Nuôi nhông không sợ rủi ro như chăn nuôi nhiều con vật khác. Tôi đã làm thủ tục xin chính quyền địa phương cho một ít đất để mở rộng trang trại của mình quy mô lớn hơn. Nếu có vốn, sẽ nhân giống đàn nhông lên 5.000 con” - ông Thuận cho hay.
Đây là mô hình nuôi nhông thứ hai ở vùng cát Quảng Nam, trước đây có một mô hình nuôi nhông ở dạng hộ gia đình tại xã Tam Tiến (huyện Núi Thành) cũng cho hiệu quả khá cao, nhưng chỉ dừng lại việc nuôi nhỏ lẻ, manh mún. Nuôi nhông không sợ đầu ra, vì thịt nhông hiện rất hiếm trên thị trường. Ngay con đường An Hà - Quảng Phú, xã Tam Phú (Tam Kỳ) lân cận với vùng cát Tam Thanh, quán nhậu đặc sản thịt nhông mọc lên như nấm vẫn nườm nượp khách lui đến.
Ông Nguyễn Thanh Lâm, Phó Chủ tịch UBND xã Tam Thanh, cho biết nuôi nhông là mô hình chăn nuôi độc đáo ở vùng cát. Nếu thành công sẽ dần dần phát triển theo hướng quy mô. Tuy nhiên, để nông dân mạnh dạn đầu tư theo hướng phát triển hàng hóa, rất cần sự trợ giúp của cán bộ kỹ sư ngành chăn nuôi, lẫn nguồn vốn vay của ngân hàng.
Đầu năm 2009, Trạm Khuyến nông - khuyến lâm huyện Thăng Bình đã trực tiếp khảo sát, tham khảo các mô hình ở tỉnh Bình Thuận và đem giống về nuôi thử nghiệm ở địa phương, và đã giao cho anh Nguyễn Hồng Anh và Nguyễn Văn Thông nuôi thử nghiệm ở gia đình anh Nguyễn Hồng Anh (tổ 2, thôn Tiên Đỏa, xã Bình Sa, Thăng Bình). Sau 2 vụ xuất bán, anh Nguyễn Hồng Anh và anh Nguyễn Văn Thông đã thu được hơn 10 triệu đồng. Anh Thông cho biết, nhông là giống rất dễ nuôi, vì thế có thể tận dụng nguồn thức ăn sẵn có từ sản xuất nông nghiệp như rau muống, bí đỏ hoặc các loại dưa… Điều đặc biệt, con vật này không bị dịch bệnh và chỉ sống trên mặt đất vào các tháng mùa khô, các tháng mùa mưa chúng ẩn vào hang nên ít tốn thức ăn.
Sau thành công từ mô hình thử nghiệm, đến nay, trên địa bàn huyện Thăng Bình có rất nhiều hộ dân đã chọn nuôi nhông kinh tế. Theo ông Lâm Văn Luận (tổ 4, thôn Ngọc Sơn, xã Bình Phục, Thăng Bình), trước đây, gia đình ông làm nhiều nghề, nhận thấy nuôi nhông ở hộ của anh Nguyễn Hồng Anh thu được kết quả tốt, lại phù hợp với vùng cát của gia đình nên ông đã quyết định đầu tư cho mô hình kinh tế này.
Hiện giá nhông trên thị trường là 350.000 đồng/kg song không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ của thị trường.
Phúc Đạt

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng Pháp :  haricot vert , danh pháp khoa học Phaseolus vulgaris , là một giống  đ

Cơm nguội vàng hay còn gọi là cây sếu, phác, cơm nguội Trung Quốc - Celtis sinensis Pers.

Cơm nguội vàng  hay còn gọi là  cây sếu ,  phác ,  cơm nguội Trung Quốc  (tên khoa học:  Celtis sinensis  Pers., tiếng Trung:  朴树 ) là một loài thực vật thuộc  chi Cơm nguội ,  họ Gai dầu  ( Cannabaceae ). Phân loại khoa học Giới   ( regnum ) Plantae (không phân hạng) Angiospermae (không phân hạng) Eudicots Bộ   ( ordo ) Rosales Họ   ( familia ) Cannabaceae Chi   ( genus ) Celtis Loài   ( species ) C. sinensis Danh pháp hai phần Celtis sinensis Pers. Các danh pháp đồng nghĩa có:  Celtis bodinieri   H. Léveillé ;  C. bungeana  var.  pubipedicella   G. H. Wang ;  C. cercidifolia   C. K. Schneider ;  C. hunanensis   Handel-Mazzetti ;  C. labilis   C. K. Schneider ;  C. nervosa   Hemsley ;  C. tetrandra   Roxburgh  subsp.  sinensis   (Persoon) Y. C. Tang .