http://duoclieu.hup.edu.vn/?cat=2&paged=24
- 1
BÁT GIÁC LIÊN
Tên khoa học: Podophyllum tonkinense Gagnep, Dysosma versipellis (Hance) M. Cheng, họ Hoàng liên gai (Berberidaceae) Cây mọc hoang ở những vùng núi ở độ cao từ 800-900m, đất mùn, ẩm mát có độ chiếu sáng yếu ở các tỉnh miền Bắc nước ta.Mô tả: Cây thảo sống nhiều năm, cao 30 – 50cm, thân rễ thô to, mọc ngang và cứng chia nhiều đốt. Thân mang một đến 2 lá, đính lá dạng ngù. Phiến lá rộng đến 30cm, có 4 – 9 thùy nông, thùy dạng tam giác rộng hoặc hình tròn dài dạng trứng, đỉnh nhọn sCHUỖI TIỀNTên khác: Cây đồng tiền, Bài tiền thảo, Tràng quả đẹp.
Tên khoa học: Desmodium pulchellum Benth syn. Phyllodium pulchellum Desv., họ Đậu (Papilionaceae). Cây mọc hoang phổ biến ở nhiều địa phương nước ta.Bộ phận dùng: Rễ và lá (Radix et Folium Phyllodii), thu hái quanh năm rửa sạch, dùng tươi hay thái lát phơi khô dùng dần.Thành phần hoá học chính: Các alcaloid, hợp chất indol.Công dụng: Lá và rễ cây Chuỗi tiền có vị nhạt, se, hơi độc, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu sưng, hoạt huyết, tán ứ và tiêu bọc máu. Được dùng chữa cảm mạo phát sốt, viêm gan cấp và mạn tính, xơ gan. Chữa thấp khớp đau xương, đòn ngã tổn thương.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 10-20g lá, 15-30g rễ, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Lưu ý: - Phụ nữ có thai không được dùng cây Chuỗi tiền.HOA THỦY TIÊNTên khoa học: Narcissue tazetta L. var. chinensis Roem., họ Thủy tiên (Amaryllidaceae). Cây có nguồn gốc từ Trung Quốc, thường được trồng vào dịp Tết làm cây cảnh vì hoa đẹp và thơm.
Mô tả: Cây nhỏ, có thân hành to hình trứng tròn. Lá dài 30-45cm, rộng 1-1,8cm, đầu không nhọn, màu xanh mốc. Hoa thường xếp 4-8 cái thành tán ở ngọn một cán hoa trần, có một mo mỏng bao bọc trước khi hoa nở. Hoa thơm, rộng đến 3cm, bao hoa màu trắng, có ống dài khoảng 2cm, mang các thùy hình trứng ngược, cong ra bên ngoài, tràng phụ màu vàng, hình chuông. Ra hoa mùa đông, kết quả tháng 4-5.Bộ phận dùng: Thân hành, hoa (Bulbus et Flos Narcissi Chinensis), dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần.Thành phần hoá học chính: Trong thân hành có các alcaloid pseudolycorine, lycorine, tazettin.Công dụng: Củ Thủy tiên có vị đắng, cay, tính lạnh, có độc, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, bài nùng tiêu thũng. Nó cũng có tác dụng làm gây nôn. Hoa có tác dụng hoạt huyết điều kinh, khư phong trừ nhiệt. Thường dùng chữa mụn nhọt lở ngứa, trùng độc cắn, sưng vú, hóc xương cá. Người ta cùng dùng Thủy tiên làm thuốc gây nôn và long đờm.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-8g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.LÔ HỘI
Tên khoa học: Aloe spp., họ Lô hội (Asphodelaceae). Cây được trồng ở nước ta, nhiều ở miền Nam Trung bộ.Bộ phận dùng: Dịch ép, cô đặc, đóng thành bánh, gel.Thành phần hoá học chính: Các dẫn chất anthranoid.Công dụng, cách dùng: 0,05- 0,1g kích thích nhẹ niêm mạc, giúp tiêu hoá, ăn uống không tiêu. Liều lớn chữa nhức đầu, sung huyết phổi, sung huyết các phủ tạng.Chú ý: Nhựa Lô hội độc, liều cao (trên 8g) có thể gây ngộ độc chết người. Phụ nữ có thai, người bị tiêu chảy không dùng.- Gel lấy từ lá Lô hội được dùng để sản xuất nước uống bổ dưỡng, chế một số loại mỹ phẩm.LỘ LỘ THÔNG (Fructus Liquidambaris)
Nguồn gốc: Quả phơi khô của cây Sau sau (Liquidambar formosana Hance), họ Sau sau (Hamamelidaceae). Cây mọc nhiều ở các vùng rừng thưa miền Bắc và miền Trung nước ta.Thành phần hoá học chính: Tanin, saponin, tinh dầu…Công dụng, cách dùng:Chữa phong thấp, làm thuốc lợi niệu, điều hoà kinh nguyệt, dùng cho sản phụ ít sữa.Chú ý: Lá cây Sau sau (Phong hương diệp) nấu nước uống chữa mẩn ngứa, lợi niệu.Người ta dùng cành, lá cây Sau sau chữa thấp khớp, Dùng nhựa cây làm thuốc giảm xuất tiết đường hô hấp (sổ mũi), thuốc bôi ngoài da làm mau lành vết thương.LONG CỐT (Os Draconis)
Nguồn gốc: Dược liệu là xương sống và các xương khác hoá thạch của động vật có vú lớn cổ xưa như Rhinocerus hoặc Rechistaric reptiles được thu thập và làm vỡ thành các mảnh. Vị thuốc nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Các nguyên tố khoáng calci, phosphat, sulphat, Mg, Al, Fe…Công dụng: Chữa hoa mắt, chóng mặt, hay hồi hộp, mất ngủ, ra mồ hôi trộm. Làm thuốc bổ thận.Cách dùng, liều lượng: Ngày 15-30g phối hợp trong các phương thuốc dạng thuốc sắc, hoàn tán.Chú ý: Cần nấu kỹ Long cốt trước khi phối hợp với các vị thuốc khác.LONG ĐỞM (Radix Gentianae)
Nguồn gốc: Dược liệu là rễ khô của cây Long đởm(Gentiana scabra Bunge.), họ Long đởm (Gentianaceae). Vị thuốc nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Glucosid đắng thuộc nhóm iridoid gọi là gentiopicrin, đường gentianose.Công dụng: Long đởm làm thuốc giúp sự tiêu hoá, thuốc bổ đắng, làm đại tiện dễ mà không gây tiêu chảy. Chữa đau dạ dày, chữa sốt, ho, khó thở. Cây Long đởm tươi giã nát đắp chữa da viêm mủ, nhọt độc, viêm hạch, apxe.Cách dùng, liều lượng: Ngày 6-12g phối hợp trong các phương thuốc dạng thuốc sắc, hoàn tán.LONG NÃO
Tên khoa học: Cinnamomum camphora (L.) Presl = Laurus camphora L., họ Long não (Lauraceae). Cây được trồng ở nhiều địa phương nước ta.Bộ phận dùng: Lá, cành, thân. Gỗ và lá Long não là nguyên liệu để cất tinh dầu.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu Long não tuỳ nguồn gốc mà thành phần chủ yếu của tinh dầu khác nhau ví dụ camphor, cineol, linalol…Công dụng, cách dùng: Lá Long não có thể nấu nước xông chữa cảm, nấu nước tắm chữa lở loét. Rễ sắc uống chữa đau bụng, nôn mửa, tiêu hoá kém. Tinh dầu có tác dụng trị bỏng, xua muỗi, tẩy uế, chế dầu cao xoa bóp. Bột long não là tinh thể Long não lấy được từ gỗ rễ và lá bằng phương pháp cất kéo hơi nước. Bột Long não được gọi là Camphor có thể dùng ngoài làm thuốc sát trùng, tiêu viêm, dùng trong dưới dạng thuốc tiêm (Dung dịch camphor 10-20% trong dầu) chữa trụy tim.LONG NHÃN (Arillus Longan)
Nguồn gốc: Vị thuốc là áo hạt (thường gọi là cùi) đã chế biến khô của quả cây Nhãn (Euphoria longan(Lour.) Steud.), họ Bồ hòn (Sapindaceae). Nhãn là loại cây ăn quả được trồng nhiều nơi trong nước ta.Thành phần hoá học: Đường (saccarose, glucose), protein, acid tatric, vitamin A, B, các men amylase, peroxidase.Công dụng: Làm thuốc bổ, trị chứng trí nhớ bị sút kém, hay quên, mất ngủ, tâm thần hồi hộp mệt mỏi, thiếu máu.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 9-18g. Dạng thuốc sắc hay cao lỏng.Chú thích: Hạt nhãn sấy khô, tán bột để chữa chốc lở, cầm máu khi chân tay bị đứt. Cùi chế biến khô của quả cây Vải (Litchi sinensis Sonn.) – Lệ chi nhục (Arillus Litchi) được dùng như Long nhãn. Hạt quả vải (Lệ chi hạch- Semen Litchi) chữa đau bụng khi hành kinh, chữa đau dạ dày.LONG NHA THẢO
Tên khoa học: Agrimonia eupatoria L., họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây mọc hoang ở các vùng núi cao nước ta. Dược liệu phần lớn phải nhập từ Trung quốc.Bộ phận dùng: Phần trên mặt đấtThành phần hoá học chính: Flavonoid, β-sistosterol, tanin.Công dụng: Chữa ho ra máu, thổ huyết, chảy máu cam, băng huyết, đại tiện ra máu. Chữa nổi hạch, mụn nhọt. Sử dụng trong một số bài thuốc hỗ trợ điều trị ung thư.Cách dùng, liều lượng: Ngày 20-30g dạng nước sắc, dùng riêng hay phối hợp với các dược liệu khác.LỰU
Tên khoa học: Punica granatum L., họ Lựu (Punicaceae). Cây được trồng khắp nơi trong nước ta để làm cảnh, làm thuốc.Bộ phận dùng: Vỏ rễ (Cortex Granati), vỏ thân, vỏ cành, Vỏ quả (Thạch lựu bì – Pericarpium Granati).Thành phần hoá học chính: Vỏ (rễ, thân, cành) chứa tanin, alcaloid. Vỏ quả chứa tanin, chất mầu.Công dụng, cách dùng: Vỏ rễ, thân, cành: Diệt sán. Vỏ rễ sắc uống ngày 20-60g, thường dùng vỏ tươi vì có nhiều alcaloid. Vỏ quả chữa lỵ, bạch đới, kinh nguyệt quá nhiều, nước sắc còn dùng ngậm chữa viêm amidan. Sắc uống mỗi ngày 10- 15g.Chú ý: Không dùng vỏ rễ cho phụ nữ có thai và trẻ em.MẠCH MÔN (Radix Ophiopogonis)
Nguồn gốc: Rễ củ phơi hay sấy khô của cây Mạch môn (Ophiopogon japonicus (Thunb.) Ker. Gawl.), họ Mạch môn (Haemodoraceae). Cây được trồng nhiều nơi trong nước ta làm cảnh và làm thuốc.Thành phần hoá học chính: Chất nhầy, đường, saponin steroid, sitosterol.Công dụng: Chữa viêm phế quản cấp tính, chữa ho, long đờm, ho lao, sốt, phiền khát, thổ huyết, chảy máu cam. Chữa ăn uống không tiêu, chữa nhồi máu cơ tim.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc, khi dùng rút bỏ lõi mới có tác dụng tốt.MẠCH NHA (Fructus Hordet germinatus)
Nguồn gốc: Quả chín của cây Đại mạch (Hordeum vulgare L., Hordeum sativum Jess.), họ Lúa (Poaceae), làm mọc mầm, sấy ở nhiệt độ dưới 600C. Dược liệu nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học: Trong hạt có tinh bột, chất béo, protid, đường, các men amylase, maltase, vitamin B, C. Trong mầm hạt có men giúp sự tiêu hoá.Công dụng: Thuốc bổ dưỡng, dùng khi ăn uống kém tiêu, ngực bụng chướng đau. Chữa phù do thiếu vitamin.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 12-30g dưới dạng nước pha hay cao mạch nha.Chú ý: Nước ta có dùng thóc tẻ (Oryza sativa L. var. utilissima), lấy hạt, làm nẩy mầm, sấy khô với tên Cốc nha. Trên thực tế các lương y vẫn dùng hạt cây Đại mạch không mầm để làm thuốc.MÃ ĐỀ
Tên khoa học: Plantago major L., họ Mã đề (Plantaginaceae). Cây mọc hoang nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Toàn cây (Xa tiền thảo – Herba Plantaginis). Lá (Xa tiền – Folium Plantaginis). Hạt (Xa tiền tử – Semen Plantaginis).Thành phần hoá học chính: Lá chứa flavonoid, vitamin K, muối kali.Hạt có chất nhầy, acid plantenolic, succinic…Công dụng: Chữa phù thũng, bí tiểu tiện, đi tiểu ra máu, ho lâu ngày, viêm khí quản, đau mắt đỏ, mụn nhọt.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 10-20g lá hoặc 6-12g hạt dưới dạng thuốc sắc. Lá tươi giã nhỏ đắp lên mụn nhọt, toàn cây nấu thành cao đặc chữa bỏng.MA HOÀNG (Herba Ephedrae)
Nguồn gốc: Phần trên mặt đất phơi hay sấy khôcủa một số loài Ma hoàng, thường gặp nhất là Thảo ma hoàng (Ephedra sinica Stapf.), Mộc tặc ma hoàng (Ephedra equisetina Bunge.), Trung gian ma hoàng (Ephedra intermedia Schrenk et Mey.) họ Ma hoàng (Ephedraceae). Nước ta chưa thấy những cây này. Vị thuốc Ma hoàng phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Alcaloid (ít nhất 1%), chủ yếu là ephedrin.Công dụng: Giải cảm không có mồ hôi, chữa ho, trừ đờm, viêm khí quản, hen suyễn. Chiết xuất ephedrin bào chế thành viên nén làm thuốc chữa hen hay dung dịch nhỏ mũi.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 5-10 g, dạng thuốc sắc.Ghi chú: Rễ Ma hoàng (Radix Ephedrae – Ma hoàng căn) có tác dụng cầm mồ hôi.MẠN KINH TỬ (Fructus Viticis)
Nguồn gốc: Dược liệu là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Mạn kinh (Vitex trifolia L.) hay cây Mạn kinh đơn diệp (Vitex trifolia L. var. simplicifoliaCham.), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Cây mọc hoang nhiều ở các vùng rừng núi và ven biển nước ta.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (chủ yếu là Camphor và pinen), alcaloid.Công dụng: Chữa sốt, cảm mạo, nhức đầu, đau mắt, hoa mắt chóng mặt, tê buốt.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g dạng thuốc sắc hoặc 2-3g dưới dạng bột hay ngâm rượu.MẦN TƯỚI
Tên khoa học: Eupatorium fortunei Turcz., họ Cúc (Asteraceae) Cây mọc hoang và được trồng làm thuốc.Bộ phận dùng: Phần trên mặt đất phơi hay sấy khô (Herba Eupatorii).Thành phần hoá học chính: Coumarin.Công dụng: Lợi tiểu, chữa sốt, chữa mụn nhọt, lở ngứa.Cách dùng, liều lượng: Ngày 50-150g cây tươi dưới dạng thuốc sắc.Chú ý: Cây Mần tưới trắng (Eupatorium staechadosmum Hance) giải cảm, chữa kinh nguyệt không đều. Cây Mần tưới tía (Ba dót, Bả dột) (Eupatorium ayapana Vent.) dùng trong dân gian chữa cao huyết áp.MĂNG CỤTTên khác: Sơn trúc tử, Cây măng, Giáng châu.
Tên khoa học: Garcinia mangostana L., họ Bứa (Clusiaceae). Cây được trồng ở các tỉnh phía Nam nước ta để lấy quả ăn.Bộ phận dùng: Vỏ quả và vỏ cây (Pericarpium et Cortex Garciniae Mangostanae). Vỏ quả thu thập vào mùa quả chín, phơi khô cất dành dùng làm thuốc.Thành phần hoá học chính: Vỏ quả chứa tanin, nhựa, flavonoid, vỏ cây có hàm lượng tanin cao.Công dụng: Làm thuốc chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng, làm giãn phế quản trong điều trị hen suyễn.Làm thuốc chống dịch tả, bệnh lỵ, kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy giảm miễn dịch, chữa vết thương ngoài da.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 20-40g, có thể dùng tới 60g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị khác.MẬT GẤU
Nguồn gốc: Mật của một số loài Gấu như Gấu ngựa, Gấu chó (Ursus spp), họ Gấu (Ursidae).Thành phần hoá học chính: Acid ursodesoxycholic, muối kim loại của acid cholic, cholesterol, sắc tố mật…Công dụng: Làm thuốc xoa bóp chữa viêm tấy, đau nhức, tụ máu bầm tím do ngã hay chấn thương. Chữa viêm loét dạ dày, mật và tụy hoạt động kém, sỏi mật, viêm khớp, viêm xoang…Gần đây mật gấu được dùng kết hợp với các phương pháp trị liệu khác để điều trị một số một số trường hợp ung thư.Cách dùng, liều lượng: Mật gấu hoà tan trong rượu, dùng để uống và xoa bóp chỗ sưng đau. Mỗi ngày uống 0,3g mật gấu pha với rượu hoặc nước sôi.MÃ TIỀN (Semen Strychni)
Nguồn gốc: Hạt phơi hay sấy khô của cây Mã tiền (Strychnos nuxvomica L.) hoặc một số loài khác thuộc chi Strychnos, họ Mã tiền (Loganiaceae). Cây mọc hoang ở các vùng núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Alcaloid (strychnine, brucin) .Công dụng: Kích thích tiêu hoá, chữa nhức mỏi chân tay. Chiết xuất strychnin và brucin dùng trong y học hiện đại.Cách dùng, liều lượng: - Mã tiền sống: Dùng dưới dạng cồn xoa bóp bên ngoài.- Mã tiền chế: Mã tiền dùng trong phải chế với một số phụ liệu như nước vo gạo, dầu vừng. Dùng dưới dạng thuốc bột hay thuốc sắc. Ngày uống 0,1-0,3g, dùng phối hợp với các thuốc khác, uống lúc no. Trẻ em dưới 3 tuổi không được dùng.Ghi chú: Thuốc độc bảng A.MẬT ONG (Mel)Tên khác: Bách hoa tinh, Bách hoa cao, Phong mật.
Nguồn gốc: Là mật lấy từ tổ của Ong mật gốc Á (Apis cerana Fabricius) hay Ong mật gốc Âu (Apis melifera L.), họ Ong mật (Apidae).Thành phần hoá học chính: Đường đơn, muối vô cơ, acid hữu cơ, men.Công dụng: Thuốc bổ, làm giảm độ acid của dịch vị, điều trị loét dạ dày, Mật ong được sử dụng làm tá dược trong các sản phẩm bào chế Đông dược…Cách dùng, liều lượng: Ngày 10-50g dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Nhiều sản phẩm từ Ong mật được sử dụng làm thuốc như phấn hoa, sữa ong chúa, sáp…MÁU CHÓ
Tên khoa học: Knema corticosa Lour, syn. Myristica globularia Lam., họ Máu chó (Myristicaceae). Cây mọc hoang ở rừng thứ sinh, vùng núi thấp và vừa ở Hà Bắc (cũ), Thanh Hoá, Nghệ An, Biên Hoà…Bộ phận dùng: Hạt (Semen Knemae), thu vào mùa hạ, khi quả chín, đem phơi khô.Thành phần hoá học chính: Dầu béo.Công dụng: Dùng chế thuốc chữa ghẻ.Cách dùng, liều lượng: Rửa sạch và xát mạnh vào các nốt ghẻ cho bong vảy, rồi bôi thuốc từ hạt Máu chó. Ngày làm hai lần, bôi lớp thật mỏng. Nếu dùng dầu nguyên ép từ hạt phải pha loãng.Lưu ý: Cây Máu Chó lá to (Horsfieldia amygdalina (Wall.) Warb) cùng họ, hạt cũng được dùng với công dụng tương tự.MẪU LỆ (Concha Ostreae)
Nguồn gốc: Vỏ khô của nhiều loài Hàu (Ostrea spp.), họ Mẫu lệ (Ostreidae). Đa số các loài hầu này sống ở những vùng biển ấm.Thành phần hoá học chính: Calci carbonat (80-95%), calci phosphat và sulphat, còn có Mg, Al, Fe.Công dụng: Mẫu lệ dùng làm thuốc bổ, chữa bệnh có nhiều mồ hôi, chữa đau dạ dày, cơ thể suy nhược, băng huyết, chữa mụn nhọt, lở loét. Bột Mẫu lệ nung (Đoạn mẫu lệ) dùng bôi ngoài chữa mụn nhọt mới sưng, chưa thành mủ.Cách dùng, liều lượng: Mẫu lệ khô, khi dùng rửa sạch, làm khô, tán vụn thành bột hoặc nung rồi mới tán bột. Mỗi ngày uống từ 3-6g.MÍA DÒ
Tên khoa học: Costus speciosus Smith, họ Gừng (Zingiberaceae). Cây mọc hoang khắp nơi trong nước ta, thường ưa những nơi ẩm thấp.Bộ phận dùng: Thân rễ.Thành phần hoá học chính: Thân rễ Mía dò chứa saponin steroid (diosgenin, tigogenin).Công dụng, cách dùng: Chữa viêm thận, phù thũng, chữa viêm gan cổ chướng.Thân rễ sắc uống chữa sốt, chữa tiểu buốt, tiểu rắt, nước tiểu vàng, chữa viêm bàng quang, làm ra mồ hôi. Ngày dùng 10-20g.Thân rễ Mía dò là nguồn dược liệu có tiềm năng dùng để chiết xuất diosgenin.MIẾT GIÁP (Carapax Trionicys)
Nguồn gốc: Dược liệu là mai con Ba ba (Trionyx sinensis Wiegmann.), họ Baba (Triomychidae).Thành phần hoá học: Miết giáp chứa keratin, iod, vitamin D, muối khoáng.Công dụng: Miết giáp được dùng làm thuốc bổ dưỡng, chữa đau nhức xương, huyết áp cao, trẻ em sốt co giật, phụ nữ bế kinh, ung nhọt. Chữa hen suyễn.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 10-30g, dạng thuốc sắc, bột, cao thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Người ăn không tiêu, tiêu chảy, phụ nữ có thai không dùng Miết giáp.Có nhiều loài Baba khác nhau đều được sử dụng để thu vị thuốc Miết giáp.MINH GIAO (Colla Bovis)
Nguồn gốc: Vị thuốc là keo chế từ da trâu (Babulus babulis L.) hoặc bò (Bos taurus L.), họ Trâu bò (Bovidae).Thành phần hoá học chính: collagen, muối calci.Công dụng: Bổ, thuốc cầm máu khi băng huyết, thổ huyết và chữa các chứng ra máu (lỵ, ho, đi tiểu ra máu), động thai, kinh nguyệt không đều, còn dùng làm thuốc an thần.Cách dùng, liều lượng: 4-12g mỗi ngày, dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu uống.Ghi chú: A giao (Colla Asini) là keo chế từ da lừa (Equis asinus L.), họ Ngựa (Equidae), công dụng như Minh giao. Nước ta phải nhập A giao từ Trung Quốc, Mông cổ.MỘC HƯƠNG (Radix Saussureae lappae – Radix Aucklandiae)
Nguồn gốc: Dược liệu là rễ đã phơi hay sấy khô của cây Mộc hương (Saussurea lappa Clarke. =Aucklandia lappa Decne), họ Cúc (Asteraceae). Cây ưa khí hậu mát, nước ta có trồng cây này. Phần lớn dược liệu còn phải nhập.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, alcaloid, acid amin.Công dụng: Chữa tiêu chảy, lỵ cấp, mạn tính, viêm đại tràng mạn, viêm loét dạ dày tá tràng. Chữa xơ gan, viêm thận…Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-6g dạng thuốc sắc hoặc bột, thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác.Ghi chú: Trên thị trường sử dụng Mộc hương nam là vỏ cây Rụt (Ilex sp.), họ Nhựa ruồi (Aquifoliaceae). Một số tỉnh miền núi nước ta (Hà Giang, Lào Cai…) dùng cây Thổ mộc hương (Inula helenium L.) cần chú ý phân biệt.MỘC QUA (Fructus Chaenomelis lagenariae)
Nguồn gốc: Dược liệu là quả chín, bổ dọc phơi khôcủa cây Mộc qua (Chaenomeles lagenaria (Loisel.) Koidz. = Cydonia lagenaria Loisel), họ Hoa hồng (Rosaceae).Bộ phận dùng: Quả.Thành phần hoá học chính: Saponin, flavonoid, acid hữu cơ, đường, tanin.Công dụng: Chữa phong thấp, đau nhức khớp, chân tay tê mỏi, đau nhức, ho lâu ngày không khỏi. Chữa thủy thũng, thổ tả, kiết lỵ.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g dạng thuốc sắc thường dùng phối hợp với các vị thuốc như Kỷ tử, Ngọc trúc, Ngũ gia bì, Độc hoạt, Đương quy…MỘC TẶC
Tên khoa học: Equisetum debile Roxb.), họ Mộc tặc (Equisetaceae). Cây mọc hoang nhiều ở những vùng đất ẩm dọc khe, suối ở nhiều tỉnh nước ta.Bộ phận dùng: Phần trên mặt đất (Herba Equiseti debilis) đã phơi hay sấy khô.Thành phần hoá học chính: Alcaloid, flavonoid, vitamin…Công dụng: Chữa mắt đau lâu ngày, mắt bị màng che, các chứng bệnh về mắt khác. Chữa băng huyết, rong huyết kéo dài. Chữa viêm gan, viêm thận, viêm bàng quang. Chữa đi tiểu ra sỏi, ra cặn trắng. Làm thuốc lợi tiểu.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-12g kết hợp với thuốc khác, dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán..MỘC THÔNG (Caulis Clematidis)
Nguồn gốc: Thân leo đã phơi hay sấy khô của cây Tiểu mộc thông (Clematis armandii Franch), hoặc cây Tú cầu đằng (Clematis montana Buch-Ham. ex DC.), họ Hoàng liên (Ranunculaceae).Công dụng: Làm thuốc lợi tiểu, chữa tiểu tiện đau buốt, tiểu tiện ra huyết, phù thũng.Cách dùng, liều lượng: Ngày 4-6g dưới dạng thuốc sắc; dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Mộc thông là vị thuốc vừa nhập của Trung Quốc, vừa khai thác trong nước. Người ta sử dụng nhiều cây thuộc các họ thực vật khác nhau để thu vị thuốc Mộc thông. Ví dụ: thân cành cây Mộc thông (Iodes ovalis Blume var. vitiginea (Hance) Gagnep = Iodes vitiginea (Hance) Hemsl.), họ Mộc thông (Phytocrenaceae); Cây Bạch mộc thông (Akebia quinata Decne), họ Lạc di (Lardizabalaceae).MƠTên khoa học: Prunus mome Sieb. et Zucc., họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây được trồng ở nhiều địa phương để lấy quả.
Bộ phận dùng: Quả già đã chế muối (Mơ muối – Fructus Mume preparatus), Nhân hạt (Hạnh nhân –Semen Armeniacae amarum).Thành phần hoá học: Thịt quả chứa acid hữu cơ, flavonoid, carotenoid. Nhân hạt ngoài dầu béo (35-40%) còn có chứa glycosid cyanogenic là amigdalin.Công dụng: Mơ muối chữa ho, trừ đờm, tức thở, phù thũng.Dầu hạt mơ (dầu hạnh nhân) được dùng làm thuốc bổ, thuốc nhuận tràng…Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 3-6g mơ muối, có thể dùng dạng thuốc sắc, thuốc hoàn…MƠ LÔNG
Tên khoa học: Paederia tomentosa L., họ Cà phê (Rubiaceae). Cây mọc hoang khắp nơi và được trồng ở các bờ rào để làm thuốc, làm rau ăn.Thành phần hoá học chính: Lá Mơ lông chứa tinh dầu, alcaloid, các acid béo.Công dụng: Lá Mơ lông dùng để chữa lỵ trực trùng và lỵ amip. Chữa đau đại tràng, chữa ho.Cách dùng, liều lượng: Dùng khoảng 50g lá Mơ lông, rửa sạch, thái nhỏ, trộn với trứng gà, bọc vào lá chuối đem nướng hoặc đặt rán trên chảo (không có mỡ) cho thơm. Ngày ăn 2-3 lần, trong 5-8 ngày.MÓNG LƯNG RỒNG
Tên khoa học: Selaginella tamariscina (Beauv.) Spring., họ Quyển bá (Selaginellaceae).Bộ phận dùng: Toàn cây (Herba Selaginellae).Thành phần hoá học chính: Flavonoid.Công dụng: Toàn cây Móng lưng rồng dùng chữa ho ra máu, nôn ra máu. Chữa bỏng lửa, váng đầu hoa mắt, vàng da. Chữa ung thư phổi, ung thư vòm họng.Cách dùng, liều lượng: Mỗi ngày dung 20-30g dạng thuốc sắc hay bột.Chú ý: Cây Móng lưng rồng được bán ở một số chợ phía Bắc nước ta để chữa nhiều thứ bệnh khác nhau.Loài Quyển bá tràng chim (Selaginella involvens Spring) cũng được dùng với cùng công dụng.MỘT DƯỢC (Myrrha)
Nguồn gốc: Vị thuốc là gôm nhựa lấy ra từ câyCommiphora molmol Engler hay Commiphora abyssinica Engler, họ Trám (Burceraceae). Cây này chưa thấy ở nước ta. Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Nhựa, tinh dầu, gôm.Công dụng: Sinh cơ, chữa vết thương do chém, chặt, chữa phù thũng, điều kinh.Làm hương liệu trong ngành sản xuất nước hoa.Cách dùng, liều lượng: 0,2-2g mỗi ngày, dạng thuốc sắc, hoàn tán. Có thể có dạng cao dán vào chỗ nhọt sưng đau.MỨC HOA TRẮNG
Tên khoa học: Holarrhena antidysenteria Wall, họ Trúc đào (Apocynaceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Hạt, vỏ thân.Thành phần hoá học chính: Alcaloid (conesin, norconesin, holarhenin…), trong hạt còn có nhiều dầu béo.Công dụng: Chữa lỵ amip, tiêu chảy, chữa giun sán.Cách dùng, liều lượng: Thường dùng dưới dạng bột, cồn thuốc, cao lỏng. Bột vỏ thân ngày uống 10g, bột hạt ngày uống 3-6g. Cồn hạt (1/5) ngày 2-6g; Cao lỏng (1/1) ngày uống 1-3g.Từ cây Thừng mực nước ta có sản xuất các chế phẩm: Viên Holanin (hỗn hợp alcaloid), thuốc tiêm conessin hydrochlorid hoặc conessin hydrobromid.MUỒNG TRÂU
Tên khoa học: Cassia alata L., họ Đậu (Fabaceae). Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi, có nhiều ở miền Nam và miền Trung nước ta.Bộ phận dùng: Lá (Folium Cassiae alatae), rễ (Radix Cassiae alatae), quả, thân.Thành phần hoá học chính: Anthranoid.Công dụng: Lá, rễ dùng để chữa hắc lào. Lá, quả, thân dùng làm thuốc nhuận tràng.Cách dùng, liều lượng: Lá, cành, rễ phơi khô, sắc uống làm thuốc chữa táo bón, phù thũng, đau gan, vàng da. Kết hợp với các vị thuốc khác chữa thấp khớp, viêm thần kinh toạ. Ngày dùng 6-12g dược liệu khô. Lá, rễ không kể liều lượng giã nhỏ, ép lấy nước, bôi lên chỗ hắc lào đã cạo tróc vẩy.Chú ý: Không dùng cho phụ nữ có thai.MƯỚP ĐẮNG
Tên khoa học: Momordica charantia L., họ Bí (Cucurbitaceae). Cây được trồng khắp các tỉnh trong nước ta.Bộ phận dùng: Quả, hạt.Thành phần hoá học chính:Quả chứa polyphenol, flavonoid, vitamin B1, C. Hạt chứa chất béo, chất đắng.Công dụng: Chữa ho, sốt, tắm cho trẻ con trừ rôm sẩy, dùng trong các bài thuốc điều trị tiểu đường. Chữa viêm gan mạn tính, vàng da kéo dài, đầy bụng chậm tiêu, tiểu tiện ít, rối loạn tiêu hóa, đi ngoài phân lỏng. Chữa khí hư bạch đới, khí hư ra nhiều, đau lưng, mỏi gối, ù tai, hoa mắt.Cách dùng, liều lượng: 2-3 quả nấu với nước tắm cho trẻ em, nấu canh (quả tươi), hãm uống như chè (quả khô).NÁNG HOA TRẮNG
Tên khoa học: Crinum asiaticum L., họ Thuỷ tiên (Amaryllidaceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi và được trồng để làm cảnh.Bộ phận dùng: Lá, thân hành.Thành phần hoá học chính: Thân hành, lá chứa alcaloid (Lycorin, crinamin…).Công dụng, cách dùng: Lá tươi giã nát, đắp chữa mụn nhọt, viêm da có mủ. Lá giã nát, hơ nóng, đắp chữa sưng, tụ máu do ngã, dùng để bó gãy xương, bong gân, sai khớp. Thân hành giã, nướng đắp chữa thấp khớp, nhức mỏi. Lá khô sắc nước uống chữa trĩ ngoại…NGẢI CỨU
Tên khoa học: Artemisia vulgaris L. họ Cúc (Asteraceae). Cây mọc hoang nhiều nơi ở nước ta và nhiều nước khác.Bộ phận dùng: Lá, cành non (Folium Artemisiae). Lá phơi khô, tán nhỏ, rây lấy phần mịn gọi là Ngải nhung.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, flavonoid.NGHỂ (Herba Polygoni hydropipeis)
Nguồn gốc: Toàn cây phơi hay sấy khô của cây Nghể (Polygonum hydropiper L. = Persicaria hydropiper (L.) Spoch.), họ Rau răm (Polygonaceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Thành phần hoá học chính: Anthranoid, flavonoid, tinh dầu, các acid hữu cơ, tanin.Công dụng: Làm thuốc cầm máu, nhuận trang, thông tiểu, chữa giun, chữa rắn cắn.Cách dùng, liều lượng: Dạng cao lỏng uống 30-40 giọt để cầm máu khi băng huyết trong sản khoa. Chữa rắn cắn: uống nước sắc ngọn lá Nghể với một số vị thuốc khác, lấy bã đắp lên chỗ rắn cắn.NGHỆ (Khương hoàng) – Rhizoma Curcumae longae
Nguồn gốc: Thân rễ phơi hay sấy khô của cây Nghệ (Curcuma longaL. = Curcuma domestica Valet.), họ Gừng (Zingiberaceae). Cây trồng nhiều nơi trong nước ta.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, curcumin.Công dụng: Làm gia vị, chất màu. Chữa huyết ứ, phụ nữ kinh nguyệt không đều, bế kinh, sau khi đẻ huyết xấu không ra hết, ứ huyết sưng đau, chấn thương tụ máu, chữa đau dạ dày, dùng ngoài chữa vết thương lâu lên da non, vết bỏng.Cách dùng, liều lượng: Ngày 2-10g, dạng bột hay thuốc sắc, dùng riêng hay kết hợp với các vị thuốc khác. Nghệ tươi giã nhỏ vắt lấy nước bôi chỗ lở loét, vết bỏng. Nghệ làm nguyên liệu chiết xuất curcumin.Chú ý: Không dùng Khương hoàng cho phụ nữ có thai.NGHỆ ĐEN (Rhizoma Curcumae aeruginosae)
Nguồn gốc: Là thân rễ đã phơi khô của cây Nghệ đen (Curcuma aeruginosa Rosc.), họ Gừng (Zingiberaceae). Cây mọc hoang ở nhiều địa phương nước ta.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, tinh bột, coumarin.Công dụng: Chữa đau bụng, đau ngực, ăn uống không tiêu, chấn thương tụ máu, bế kinh.Cách dùng, liều lượng: Ngày 3-6g, dạng thuốc sắc hay bột.Chú ý: Cơ thể suy yếu, có thai không nên dùng.Vị Nga truật của Trung Quốc (Rhizoma zedoaria) là thân rễ cây Nga truật (Curcuma zedoaria Rosc.).NGỌC TRÚC (Rhizoma Polygonati officinalis)
- Nguồn gốc: Thân rễ cây Ngọc trúc (Polygonatum officinale All. = Polygonatum vulgare Desf.), họ Thiên môn (Asparagaceae). Cây mọc hoang ở một số vùng núi nước ta.Thành phần hoá học: Đường, chất nhầy, flavonoid, saponin, các chất vô cơ…Công dụng: Chữa lao phổi, viêm màng phổi do lao, trị ho, táo kết, ra mồ hôi trộm, cơ thể suy nhược. Chữa thấp khớp, chữa đau mắt đỏ.Cách dùng, liều lượng: Ngày 6-12g, dạng thuốc sắc, hoàn, tán, rượu thuốc, thường dùng phối hợp Ngọc trúc với các vị thuốc khác.Chú ý: Cần chú ý phân biệt cây Ngọc trúc với các loài Hoàng tinh (Polygonatum kingianum Coll et Hemsl., Polygonatum sibiricum Red.) (xem 186. Hoàng tinh).
NGÔ THÙ DU (Fructus Evodiae)
Nguồn gốc: Là quả đã chế biến khô của cây Ngô thù (Evodia rutaecarpa (Juss.) Benth.), họ Cam (Rutaceae). Cây mọc hoang ở một số tỉnh phía Bắc nước ta. Dược liệu còn phải nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, alcaloid (evodiamin, rutaecarpin, evocarpin…)Công dụng: Ngô thù du chữa đau bụng lạnh, ăn không tiêu, nôn mửa, tiêu chảy, thủy thũng. Chữa viêm loét dạ dày tá tràng. Chữa lỵ cấp tính.Cách dùng, liều lượng: Ngày 2-4g dạng thuốc sắc, hoàn, tán. Thường dùng phối hợp Ngô thù du với các vị thuốc khác. NGŨ BỘI TỬ (Galla chinensis)
Nguồn gốc: Vị thuốc là tổ đã phơi hay sấy khô của sâu Schlechtendalia chinensis Bell., ký sinh trên cây Muối (Rhus sinensis Mill.), họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Một số tỉnh ở miền Bắc nước ta có sản xuất dược liệu này.Thành phần hoá học chính: Tanin (50-70%).Công dụng: Ngũ bội tử làm thuốc săn da, chữa đau bụng tiêu chảy, chữa lỵ, xuất huyết, nôn ra máu, chảy máu cam, ra nhiều mồ hôi, chữa trẻ em đái dầm, ho, lở loét…làm nguyên liệu chế tanin.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-8g, dạng thuốc sắc, bột hoặc viên. Dung dịch Ngũ bội tử 5-10% ngậm điều trị các vết loét trong miệng. Nước sắc Ngũ bội tử dùng ngoài để rửa trị lở loét, bỏng.NGŨ GIA BÌ CHÂN CHIM
Tên khoa học: Schefflera heptaphylla (L.) Harms = Schefflera octophylla Harms., họ Ngũ gia (Araliaceae). Cây mọc hoang và trồng ở nhiều địa phương nước ta.Bộ phận dùng: Vỏ thân.Thành phần hoá học chính: Saponin, tanin, tinh dầu.Công dụng: Vỏ Ngũ gia bì chân chim sắc nước uống thay chè làm ăn ngon cơm, chữa đau lưng, nhức xương, tê bại chân tay, phù thũng.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 10-20g dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu.Ghi chú: Một số vùng ở Nghệ an dùng lá Ngũ gia bì chân chim với tên lá Lằng để chữa nhiều bệnh khác nhau.NGŨ GIA BÌ GAI
Tên khoa học: Acanthopanax trifoliatus (L.) Merr., Acanthopanax aculeatus Seem, họ Ngũ gia (Araliaceae). Cây mọc hoang, được trồng ở các tỉnh miền núi nước ta.Bộ phận dùng: Vỏ rễ, vỏ thân (Cortex Radicis et Cortex Acanthopanacis), cành lá.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, saponin.Công dụng: Chữa cảm mạo sốt cao, ho, đau ngực, đau lưng, phong thấp đau nhức khớp. Chữa viêm tuyến vú, nứt kẽ chân, mụn nhọt. Làm thuốc bổ nâng cao sức khoẻ, làm tăng trí nhớ.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 30-60g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Ghi chú: Nước ta có loài Ngũ gia bì hương (Acanthopanax gracilistylus W.W. Sm.) vỏ thân, vỏ rễ có saponin, chất thơm dùng với công dụng như Ngũ gia bì gai.NGŨ LINH CHI (Faeces Trogopterori)
Nguồn gốc: Dược liệu là phân của loài Sóc bayTrogopterus xanthipes Milne-Edwrds, thuộc họ Sóc bay (Petauristidae). Loài Sóc này chưa thấy ở nước ta.Thành phần hoá học chính: Chất nhựa, ure, acid uric.Công dụng: Chữa kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng, đẻ xong huyết xấu không ra hết sinh đau bụng, ngực đau, trẻ con bị cam.Cách dùng, liều lượng: Ngày uống 6-12g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc viên.NGƯ TINH THẢO
Tên khoa học: Houttuynia cordata Thunb., họ Lá giấp (Saururaceae). Cây mọc hoang, được trồng ở vườn để làm thuốc và làm rau.Bộ phận dùng: Toàn cây hoặc phần trên mặt đất (Herba Houttuyniae).Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, alcaloid, flavonoid.Công dụng, liều dùng: Chữa viêm phổi, apxe phổi, chữa các loại trĩ, lòi dom, kiết lỵ. Chữa viêm ruột, viêm xoang nhiễm khuẩn, đau mắt đỏ, bí tiểu tiện, kinh nguyệt khó khăn, không đều. Ngày dùng 6-12g khô hoặc 20-40g tươi dạng thuốc sắc. Dùng ngoài lấy lá tươi giã nhỏ đắp.NGƯU BÀNG TỬ (Fructus Arctii)
Tên khác: Đại lực tử, Hắc phong tử.Nguồn gốc : Vị thuốc là quả chín đã phơi khô của cây Ngưu bàng (Arctium lappa L.), họ Cúc (Asteraceae). Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Chất béo, alcaloid.Công dụng: Chữa cảm sốt, viêm họng, viêm loét lợi, viêm phổi, viêm tai, chữa ban sởi không mọc được, chữa quai bị, chữa phù thận cấp…Cách dùng, liều lượng: Ngày 6-10g, dạng thuốc sắc, thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác.Ghi chú: Rễ Ngưu bàng được dùng dưới dạng thực phẩm dinh dưỡng để thông tiểu, chữa thấp khớp, tiểu đường, chữa trứng cá, mụn nhọt…NGƯU HOÀNG (Calculus Bovis)Nguồn gốc: Sỏi mật khô của Bò (Bos taurus domesticus Gmelin), thuộc họ Bò (Bovidae).
Thành phần hoá học chính: Acid cholic, cholesterol, acid béo, este phosphoric…Công dụng: Ngưu hoàng dùng để chữa sốt cao, co giật, chữa phát cuồng, kinh phong. Chữa mụn nhọt viêm họng, sưng họng, viêm miệng, lưỡi.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 0,15-0,35g dạng thuốc bột hoặc hoàn tán.Chú ý: Sạn, sỏi mật của con Trâu (Bubalus bubalis L.) cũng được chế biến, sử dụng như sỏi mật của bò.Phụ nữ có thai không được dùng Ngưu hoàng.NGƯU TẤT (Radix Achiranthis bidentatae )
Nguồn gốc: Dược liệu là rễ đã chế biến phơi sấy khô của cây Ngưu tất (Achyranthes bidentata Blume.), họ Rau dền (Amaranthaceae). Cây được trồng ở nhiều địa phương nước ta.Thành phần hoá học chính: Saponin triterpenoid, hydratcarbon.Công dụng: Dùng sống trị cổ họng sưng đau, ung nhọt, chấn thương tụ máu, bế kinh, tiểu tiện ra máu, viêm khớp. Tẩm rượu trị đau lưng, mỏi gối, chân tay co quắp, tê bại.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 3-9g, dạng thuốc sắc. Viên Bidentin dùng theo y học hiện đại.Chú ý: Phụ nữ có thai, đang hành kinh không được dùng.Ghi chú: Ngưu tất nam là rễ cây Cỏ xước (Achyranthes aspera L.), cùng họ Rau dền, mọc hoang nhiều nơi ở nước ta có thể dùng thay vị Ngưu tất.NGŨ VỊ TỬ (Fructus Schisandrae)Nguồn gốc : Vị thuốc là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Ngũ vị Bắc (Schisandra chinensis Baill.), họ Ngũ vị (Schisandraceae). Cây mọc hoang ở các nước phương Bắc, được trồng ở Trung Quốc. Nước ta chưa thấy cây này.
Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, acid hữu cơ, vitamin C, đường, chất béo.Công dụng: Chữa ho, miệng khô, khát nước, mệt mỏi, di tinh, tả lỵ lâu ngày, mồ hôi trộm.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 2-4g (có thể 12g). Dạng thuốc sắc, cồn, bột, viên.Ghi chú: Một số địa phương nước ta có cây Nắm cơm (Kadsura japonica L.), họ Ngũ vị (Schisandraceae), quả gọi là Nam ngũ vị tửNHÂN SÂM (Radix Ginseng)
Nguồn gốc: Dược liệu là rễ đã chế biến của cây Nhân sâm (Panax ginseng C.A.Mey.), họ Ngũ gia (Araliaceae). Nước ta chưa trồng được cây này. Dược liệu nhập từ các nước khác.Thành phần hoá học chính: Saponin triterpenoid, vitamin, đường, tinh bột.Công dụng: Thuốc bổ, chữa bệnh thần kinh suy nhược, ăn ít, ho suyễn, nôn mửa, hồi hộp, sợ hãi.Cách dùng, liều lượng: 2-6g một ngày. Dạng thuốc bột, thuốc sắc, cao lỏng, rượu thuốc.Chú ý: Không dùng khi đang đại tiện lỏng, người khó ngủ không nên dùng vào buổi chiều tối. Nhân sâm phản Lê lô, Ngũ linh chi.NHÂN TRẦN (Herba Adenosmatis caerulei)
Nguồn gốc: Thân, cành mang lá, hoa đã phơi khô của cây Nhân trần (Adenosma caeruleum R.Br), họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, flavonoid.Công dụng: Chữa bệnh hoàng đản, viêm gan, tiểu vàng, tiểu đục, dùng cho phụ nữ sau khi đẻ (dùng riêng hay phối hợp Ích mẫu) để giúp tiêu hoá, ăn ngon cơm.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 8-20g, dạng thuốc sắc, thuốc viên, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Người ta còn dùng thân cành mang lá, hoa của cây Bồ bồ, còn gọi là Nhân trần bồ bồ (Adenosma indianum (Lour.) Merr.) với công dụng như Nhân trần.NHA ĐẢM TỬ (Fructus Bruceae)
Nguồn gốc: Quả đã phơi hay sấy khô của cây Sầu đâu cứt chuột, còn gọi là cây Xoan rừng (Brucea javanica Merr.= Brucea sumatrana Roxb.), họ Thanh thất (Simarubaceae). Cây mọc hoang ở nhiều vùng rừng núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Dầu béo, các chất đắng, saponin…Công dụng: Chữa lỵ amip, sốt rét, viêm ruột, trĩ ngoại.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-16g dạng thuốc sắc hoặc bột.Chú ý: Cây Sầu đâu cứt chuột còn gọi là cây Khổ sâm cho quả, cây xoan rừng, Sầu đâu rừng.NHÓ ĐÔNG
Tên khoa học: Psychochia morindoides Hutch, họ Cà phê (Rubiaceae). Cây mọc hoang ở một số tỉnh vùng núi phía Bắc nước ta.Bộ phận dùng: Phần trên mặt đất.Thành phần hoá học chính: Phần trên mặt đất của cây Nhó đông chứa anthranoid, các acid hữu cơ, carbohydrat…Công dụng: Được dùng theo kinh nghiệm dân gian của một số dân tộc phía Bắc để chữa viêm gan virus, vàng da và hội chứng khi bị bệnh gan.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 8-20g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.NHỰA CÓC (Secretio Bufonis)
Nguồn gốc: Nhựa lấy từ tuyến sau tai và tuyến trên da của con Cóc (Bufo bufo Lin), họ Cóc (Bufonidae).Thành phần hoá học chính: Glycosid tim.Công dụng: Chữa sốt cao, mê man, co giật. Là thành phần trong nhiều đơn thuốc chữa bệnh hiểm nghèo.Cách dùng, liều lượng: Thiềm tô ngày uống 1mg đến 15mg dưới dạng bột hay viên (Uống theo chỉ dẫn của thầy thuốc). Nhân dân thường dùng thịt cóc để chữa bệnh cho trẻ em gầy yếu, còi xương, chậm lớn, chậm mọc răng, ngày 2-3g thịt cóc khô. (Chế phẩm Bột cóc Baby-Công ty dược Hải phòng).Chú ý: Trứng cóc và nhựa cóc rất độc, chế biến thịt cóc phải có chuyên môn, cẩn thận. Thực tế có nhiều trường hợp tử vong do ăn phải trứng cóc, nhựa cóc.NHỤC ĐẬU KHẤU (Semen Myristicae)
Nguồn gốc: Vị thuốc là nhân hạt đã phơi khô của cây Nhục đậu khấu (Myristica fragrans Houtt.), họ Nhục đậu khấu (Myristicaceae). Cây được trồng ở miền Nam nước ta.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (8-5%), chất béo (40%) gọi là bơ nhục đậu khấu, tinh bột, nhựa, protid.Công dụng: Chữa đau bụng do lạnh, đầy chướng, tiêu chảy, trẻ em nôn ra sữa, kích thích tiêu hoá.Cách dùng, liều lượng: Ngày 0,5g bột hạt; 0,03ml tinh dầu.NHỤC THUNG DUNG (Herba Cistanchis)
Nguồn gốc : Vị thuốc là toàn thân cây có mang vẩy của một số cây thuộc chi Cistanche như Cistanche deserticola Y.G. Ma, (cây Thung dung); Cistanche ambigua G. Beck (Bge) (cây Mễ nhục thung dung).Cistanche salsa (C.A. Mey.) G.Bek. (cây Nhục thung dung), họ Nhục thung dung (Orobranchaceae). Cây mọc hoang ở một số tỉnh của Trung Quốc. Vị thuốc này ta hoàn toàn phải nhập.Thành phần hoá học chính: Nhục thung dung chứa hydrat carbon, iridoid glycosid, vitamin.Công dụng: Thuốc bổ trong những trường hợp liệt dương, lưng gối lạnh đau.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 8-12g dưới dạng thuốc sắc, thuốc hoàn, ngâm rượu.Ghi chú: Dược liệu thu hoạch phơi khô trên đất cát gọi là Điềm đại vân, loại ngâm muối 1 năm phơi khô gọi là Diêm đại vân. Cần lưu ý tình trạng bảo quản vị thuốc này.NHŨ HƯƠNG (Olibanum)
Nguồn gốc: Là chất nhựa dầu lấy từ cây Nhũ hương (Pistacia lentiscus L.), họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Cây này chưa thấy ở nước ta. Dược liệu phải nhập.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, một số acid thơm (masticic, masticonic).Công dụng: Nhũ hương dùng để chế cao dán chữa ung nhọt sưng đau. Khi uống Nhũ hương xuất tiết qua đường hô hấp và tiết niệu nên có tác dụng chữa viêm phế quản, ho, bí tiểu tiện. Nhũ hương chế thành thuốc ngậm chữa viêm miệng, sâu răng, làm thuốc chữa đau bụng. Dung dịch cồn Nhũ hương có tác dụng cầm máu ở những vết đỉa cắn. Nhũ hương còn dùng trong công nghiệp chế vecni.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 3-6g dạng thuốc bột, dạng cao dán nhọt, dạng dung dịch trong cồn.NIỆT GIÓ
Tên khoa học: Wikstroemia indica C.A. Mey., họ Trầm (Thymeleaceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Rễ, vỏ thân.Thành phần hoá học chính: Các acid amin, coumarin. Wikstroemin, AretigeminCông dụng: Kháng khuẩn, tiêu u bướu, chữa viêm phổi, viêm thận, chữa xơ gan cổ trướng, rắn cắn…Cách dùng, liều lượng: Rễ cây rửa sạch, phơi khô, trước khi dùng đun sôi khoảng 3 giờ, khi đun mở nắp để giảm độc tố, ngày dùng 8-12g.Ghi chú: Không dùng cho phụ nữ có thai.NỌC SỞITên khác: Điền cơ hoàng, Cây ban, Địa nhĩ thảo.
Tên khoa học: Hypericum japonicum Thumb., họ Ban (Hypericaceae). Cây mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Toàn câyThành phần hoá học chính:Các glycosid, Phloroglucinol, 1-methoxy-xanthone, 3,4-epoxy-5-hydroxy-1-cyclohexenecarboxylic acid.Công dụng: Chữa viêm gan vàng da, viêm thận cấp, chữa sởi ở trẻ em, kích thích tiêu hoá, chữa viêm niêm mạc miệng, chữa vết thương do đỉa cắn, sâu răng, ho…Cách dùng, liều lượng: Ngày uống 40-60g dạng nước sắc. Dùng ngoài không kể liều lượng.Ô ĐẦU – PHỤ TỬ (Radix Aconiti)
Nguồn gốc: Rễ đã phơi hay sấy khô của cây Ô đầu, gồm một số loài thuộc chi Aconitum, như(Aconitum fortunei Hemsl., Aconitum chinensePaxt., Aconitum carmichaeli Dobx., họ: Hoàng liên (Ranunculaceae). Cây mọc hoang và được trồng tại các vùng núi cao phía Bắc nước ta. Dược liệu Ô đầu, Phụ tử thu từ các loài khác nhau nên hình dáng, hàm lượng alcaloid rất khác nhau. Ô đầu (Radix Aconiti) là rễ củ mẹ phơi hay sấy khô. Phụ tử (Radix Aconiti lateralis praeparata) là rễ củ con đã chế biến và phơi sấy khô.Thành phần hoá học chính: Alcaloid 0,5%-0,7%. (aconitin, aconin, benzoylaconin).Công dụng: Phụ tử sống chủ yếu dùng ngoài để xoa bóp khi đau nhức, mỏi chân tay, đau khớp bong gân. Dùng củ thái nhỏ ngâm cồn bôi vào chỗ đau (không bôi vào vết thương hở, mắt mũi, cấm uống).Phụ tử chế được phân thành các loại tuỳ theo cách chế biến:- Diêm phụ là phụ tử chế với magnesi clorid (đảm ba), muối ăn, nước. Diêm phụ dùng trong các bài thuốc chữa chân tay co quắp, bán thân bất toại.- Bạch phụ phiến là phụ tử chế với magnesi clorid đến hết cay tê, xông diêm sinh, chủ yếu làm thuốc trừ đờm.- Hắc phụ là phụ tử chế với magnesi clorid, đường đỏ, dầu hạt cải đến hết cay tê, làm thuốc bổ mệnh môn hoả, thuốc hồi dương cứu nghịch.Cách dùng, liều lượng:Phụ tử sống dùng dưới dạng cồn Ô đầu 10% để dùng ngoài xoa bóp (thuốc độc bảng A).Phụ tử chế 4-12g mỗi ngày, dạng thuốc sắc.Ô DƯỢC (Radix Linderae)
Nguồn gốc: Vị thuốc là rễ khô của cây Ô dược (Lindera myrrha (Lour.) Merr. = Lindera trinerviaJuss.), họ Long não (Lauraceae). Cây mọc hoang trong các vùng rừng núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Alcaloid, tinh dầu.Công dụng: Chữa đau bụng, đầy hơi, nôn mửa, đau dạ dày. Chữa cam tích ở trẻ em. Chữa đau xương khớp, đi lại khó khăn, toàn thân tê mỏi, váng đầu chóng mặt. Chữa thoát vị bẹn, chữa đau bụng kinh.Cách dùng, liều lượng: Ngày 2-6g, dạng thuốc sắc hay bột, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.Ghi chú: Ô dược Trung Quốc (Thiên thai ô dược) là rễ cây Lindera strychnifolia Will. họ Long não (Lauraceae).Ô TẶC CỐT (Os Sepiellae seu Sepiae)
Nguồn gốc: Dược liệu là mai rửa sạch phơi hay sấy khô của con Cá mực (Sepia esculenta Houle), họ Cá mực (Sepidae).Thành phần hoá học chính: Các muối calci (calci carbonat, calci phosphat), acid hữu cơ, natri chlorid, vitamin…Công dụng: Dùng chữa đau loét dạ dày tá tràng, chữa loét mũi, viêm tai chảy nước, cầm máu, lao lực.Cách dùng, liều lượng: 4-8g một ngày, dạng thuốc bột hay thuốc viên.Chú ý: Các bộ phận khác của con mực như thịt mực, nước màu đen trong túi các mực cũng được dùng làm thuốc.PHAN TẢ DIỆPTên khoa học: Cassia angustifolia Vahl. và Cassia acutifolia Delile, họ Đậu (Fabaceae). Cây phân bố ở vùng nhiệt đới Châu Phi, gần đây được nhập và trồng ở Việt Nam.
Bộ phận dùng: Lá chét, quả (Sene).Thành phần hoá học chính: Thành phần chủ yếu trong lá chét, quả là anthranoid (Sennosid A,B,C,D), ngoài ra còn có flavonoid, acid hữu cơ.Công dụng: Liều thấp nhuận tràng, liều cao có tác dụng tẩy mạnh. Phan tả diệp còn có tác dụng cầm máu, kháng khuẩn, ức chế sự phát triển của nấm gây bệnh ngoài da.Cách dùng, liều lượng: Ngày 1-2g làm thuốc nhuận tràng, 3-4g làm thuốc tẩy. Dùng dưới dạng thuốc sắc hoặc trà hãm.Chú ý: Phan tả diệp có trong thành phần của một số trà giảm béo. Dùng thận trọng cho người có thai, cho con bú.PHÒNG KỶ (Radix Stephaniae tetrandrae)
Nguồn gốc: Vị thuốc là rễ phơi sấy khô của cây Phấn phòng kỷ (Stephania tetrandra S. Moore.), họ Tiết dê (Menispermaceae). Vị thuốc nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học: Alcaloid nhân isoquinoleinCông dụng: Chữa đau nhức mình mẩy, thuỷ thũng.Cách dùng, liều lượng: Ngày 6-12g, dạng thuốc sắc, hoàn.Ghi chú: Một số vị thuốc mang tên Phòng kỷ- Quảng phòng kỷ (Radix Aristolochiae) là rễ của cây Aristolochia westlandi Hemsl., thuộc họ Mộc hương (Aristolochiaceae).- Hán trung phòng kỷ là rễ cây Aristolochia heterophylla Hemsl., họ Mộc hương (Aristolochiaceae).- Mộc phòng kỷ là rễ cây Cocculus trilobus DS., họ Tiết dê (Menispermaceae).- Nam phòng kỷ (Radix Momordicae) là rễ cây Gấc Momordica cochinchinensis (Lour) Spreng, họ Bí (Cucurbitaceae).PHÒNG PHONG (Radix Ledebouriellae)
Nguồn gốc: Rễ đã phơi hay sấy khô của cây Phòng phong (Ledebouriella seseloides Wolf.), họ Cần (Apiaceae). Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Rễ Phòng phong chứa tinh dầu, coumarin, các dẫn chất phenol.Công dụng: Giải cảm, chữa đau nửa đầu, ra mồ hôi trộm khi ngủ, trừ phong thấp, thuốc tránh tái phát cơn hen, chữa đau dây thần kinh liên sườn, chữa rong huyết do nhiễm khuẩn…Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.Ghi chú: Phòng phong là vị thuốc được thu từ nhiều cây khác nhau Xuyên Phòng phong (Radix Ligustici brachylobi) từ cây Xuyên Phòng phong (Ligusticum brachylobum Franch), Vân Phòng phong còn gọi là Trúc diệp Phòng phong (Radix Seseli) từ cây Seseli delavayi Franch. Loài Siler divaricatumBenth. et Hook. cũng cho vị thuốc Phòng phong.PHÚC BỒN TỬ
Nguồn gốc: Dược liệu là quả chín phơi khô của cây Phúc bồn tử Rubus sp., họ Hoa hồng (Rosaceae). Vị thuốc phần lớn nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Acid hữu cơ, vitamin.Công dụng, cách dùng: Dùng phối hợp với các vị thuốc trong bài thuốc bổ thận, chữa các chứng đi tiểu nhiều, đái tháo, đái nhạt, liệt dương, di tinh.Cách dùng, liều lượng: Ngày 6-12g dạng thuốc sắc.Chú ý: Ở một số vùng núi nước ta có nhiều loại Rubus có thể khai thác làm phúc bồn tử.QUA LÂU NHÂN (Semen Trichosanthis)
Nguồn gốc: Hạt đã phơi hay sấy khô của cây Qua lâu (Trichosanthes kirilowii Maxim) hoặc cây Song biên qua lâu (Trichosanthes rosthornii Harms), họ Bí (Cucurbitaceae). Cây mọc hoang ở một số vùng núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Saponin triterpenoid, các sterol, acid béo, protein…Công dụng: Qua lâu nhân chữa ho lâu ngày, ho có đờm, sưng yết hầu, nhuận tràng.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 9-15g dạng thuốc sắc.Ghi chú: Quả phơi khô là Qua lâu (Fructus Trichosanthis). Vỏ quả – Qua lâu bì (Pericarpium Trichosanthis), Qua lâu bì chữa ho, thổ huyết, sốt nóng, phù thũng, vàng da. Rễ gọi là Thiên hoa phấn (xem 362. Thiên hoa phấn).QUẾ
Tên khoa học: Cinnamomum obtusifolium Nees. và một số loài Quế khác (C. cassia Blume,Cinnamomum zeylanicum Breyn.)…, họ Long não (Lauraceae). Cây mọc hoang và được trồng nhiều ở một số vùng miền núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, trong đó chủ yếu là aldehyd cinamic.Công dụng: Quế nhục dùng chữa bệnh do lạnh như chân tay lạnh, đau bụng lạnh, phong tê bại, tiêu chảy. Còn dùng cho phụ nữ khó thai nghén. Quế chi chữa cảm lạnh, sốt không ra mồ hôi. Tinh dầu thường được cất từ dư phẩm khi chế biến, dùng làm thuốc và trong kỹ nghệ hương liệu.Cách dùng, liều lượng: 1-4g/ngày, dạng thuốc sắc, hãm, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.QUY BẢN (Carapax et Plastrum Testudinis)
Tên khác: Qui giáp, Yếm rùa, Mai rùa.Nguồn gốc: Mai và yếm đã phơi khô của con Rùa đen (Chinemys reevesii Gray.), họ Rùa (Testudinidae).Thành phần hoá học: Chất keo, lipid, muối calci.Công dụng: Quy bản là vị thuốc bổ thận, chữa đau nhức trong xương, di tinh, khí hư, bạch đới, còn dùng chữa băng huyết, ho lâu ngày, trẻ em gầy yếu.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 12-24g Quy bản dạng thuốc sắc, viên hay dạng bột (Sao Quy bản với cát cho giòn, tán thành bột). Quy bản nấu thành cao (Colla carapacis Testudinis) gọi là Cao qui bản hay Quy bản giao mỗi ngày uống 10-15g, chia làm 3 lần.RẮN
Nhiều loài rắn được sử dụng làm thuốc, phần lớn chúng được săn bắt từ tự nhiên. Ngày nay nhiều loài rắn đã được nhân giống, chăn nuôi với quy mô lớn. Một số loài rắn thường dùng làm thuốc:- Rắn hổ mang (Naja naja L.), họ Rắn hổ (Elapidae).- Rắn cạp nong (Rắn mai gầm) (Bungarus fasciatusSchneider), họ Rắn hổ (Elapidae).- Rắn cạp nia (Rắn mai gầm bạc) Bungarus candidus L., họ Rắn hổ (Elapidae).- Rắn ráo (Zamenis mucosus L.), họ Rắn nước (Colubridae).- Các loài rắn biển (Đẻn đai xanh, Đẻn đốm, Đẻn khoang…) thuộc chi Hydrophis, họ Rắn biển (Hydrophidae).Bộ phận dùng, công dụng, cách dùng, liều lượng:1. Thịt rắn (bỏ nội tạng): Chứa protein, acid amin. Thường dùng dưới dạng rượu thuốc gồm 1 bộ 3 con gọi là tam xà (1 hổ mang, 1 cạp nong, 1 rắn ráo), hoặc bộ 5 con gọi là ngũ xà (1 hổ mang, 1 cạp nong, 1 cạp nia, 2 rắn ráo). Cũng có thể làm thành dạng viên chữa đau nhức khớp xương, tê bại, nhọt độc.2. Nọc rắn: Rất độc do có các enzym và protein độc. Thường dùng dưới dạng thuốc tiêm, thuốc mỡ chữa tê thấp, giảm đau cho bệnh nhân ung thư, hạn chế phát triển khối u.3. Mật rắn: Chứa các acid mật. Chữa thấp khớp, đau lưng, sốt kinh giản ở trẻ em, ho, hen suyễn, sát khuẩn vết thương. Dùng dưới dạng siro, rượu thuốc.4. Xác rắn (Xà thoái): Chữa động kinh, co giật ở trẻ em, đau cổ họng, ghẻ lở. Dùng 6-12g một ngày, dạng thuốc sắc hay sao vàng tán bột uống, ngâm cồn bôi ngoài.RAU DỪA NƯỚC
Tên khoa học: Jussiae repens L. = Ludwigia adscendens (L.) Hara, họ Rau dừa nước (Oenotheraceae). Cây mọc hoang, rất phổ biến ở các ao đầm, bờ ruộng ẩm ướt (1).Bộ phận dùng: Thân, lá (Herba Ludwigia adscendens).RAU ĐẮNGTên khác: Biển súc, Cây càng tôm, Cây xương cá.
Tên khoa học: Polygonum aviculare L., họ Rau răm (Polygonaceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi khắp nước ta.Bộ phận dùng: Toàn cây (Herba Polygoni avicularis).Thành phần hoá học chính: Rau đắng chứa tinh dầu, Flavonoid, tanin, nhựa, anthranoid…Công dụng: Chữa viêm bàng quang cấp tính, làm thuốc lợi tiểu, chữa tiểu tiện khó, tiểu buốt, sỏi thận.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g (khô) dưới dạng thuốc sắc, có thể dùng tươi hoặc sao khô rồi sắc uống.Ghi chú: Nhiều lương y sử dụng toàn cây Thài lài tía (Zebrina pendula Schnizl.), họ Thài lài (Commelinaceae) thay thế cho vị Biển súc.RAU ĐẮNG BIỂNTên khác: Rau sam trắng, Sam trắng, Cây ruột gà.
Tên khoa học: Bacopa monniera (L.) Pennell. Syn. Herpestis monieri (L.) Rothm., họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Cây mọc hoang ở nhiều vùng biển nước ta.Bộ phận dùng: Toàn cây (Herba Bacopae Monnieri). Thu hái toàn cây quanh năm, rửa sạch, dùng tươi hay phơi khô.Thành phần hoá học chính: Saponin, alcaloid.Công dụng: Dùng chữa xích, bạch lỵ (lỵ ra máu, mủ), chữa mắt đỏ sưng đau. Chữa nhức mỏi tê bại, đòn ngã tổn thương. Chữa viêm gan vàng da (thay vị rau má), chữa ho, hen suyễn, động kinh, trị rắn cắn. Dùng ngoài da tắm trị ghẻ.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 20-30g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.RAU ĐẮNG ĐẤT(tên khoa học Glinus oppositifolius, thuộc họ Molluginaceae), còn gọi là rau đắng lá vòng, trúc tiết thảo…Trong y học cổ truyền, rau đắng đất có vị đắng, tính mát, dùng trị kinh phong, nhuận gan, thông tiểu.
Rau đắng đất thường được dùng để chữa các bệnh về gan như viêm gan vàng da, nổi mề đay, sốt nóng trong người (thêm dây cứt quạ đồng lượng, sắc uống).Dùng dịch lá cây để đắp trị bệnh ngoài da và ghẻ ngứa.Trong họ rau đắng, ngon nhất là rau đắng đất. Rau đắng đất dùng nấu canh (với cá, tôm, cua, thịt bằm… rất bổ dưỡng) hoặc ăn sống (làm rau ghém ăn sống với nhiều rau rừng khác; có thể ăn với cháo cá, mắm kho).RAU MÁ
Tên khoa học: Centella asiatica (L.) Urb. Syn.Hydrocotyle asiatica L., họ Cần (Apiaceae). Cây mọc hoang khắp nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Cả cây (Herba Centellae), dùng tươi hoặc phơi sấy khô.Thành phần hoá học chính: Saponin triterpenoid (acid asiatic, asiaticosid), tinh dầu, flavonoid (kaemferol, quercetin), alcaloid, steroid, tanin…Công dụng: Rau má làm thuốc giải nhiệt, giải độc, thông tiểu. Chữa sốt, sởi, nôn ra máu, chảy máu cam, lỵ, tiêu chảy, táo bón, vàng da, mụn nhọt…Cách dùng: Ngày 30-40g cây tươi giã nát, thêm nước uống hoặc sắc. Đắp ngoài chữa tổn thương do ngã, gẫy xương, bong gân, ung nhọt. Rau má còn được sử dụng rộng rãi làm rau ăn và nước uống giải khát.RAU MUỐNG BIỂN
Tên khoa học: Ipomoea biloba Forsk., họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Cây mọc hoang khắp ven biển nước ta.Bộ phận dùng: Rễ, lá.Thành phần hoá học chính: Toàn cây có chất nhầy.Công dụng: Rễ Rau muống biển thái lát, phơi khô sắc nước uống trị phong thấp tê mỏi, làm thuốc thông tiểu tiện, chữa phù thũng, trị rắn cắn.Lá Rau muống biển giã đắp trị ung nhọt.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 8-16g dưới dạng thuốc sắc, thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác. Nhai nuốt nước, bã đắp chữa rắn cắn, giã đắp chữa ung nhọt.RÂU NGÔ (Styli et stigmata Maydis (Stylus Maydis))
Nguồn gốc: Vòi và núm phơi khô của hoa cây Ngô (Zea mays L.) đã già và cho bắp, râu ngô hái vào lúc thu hoạch Ngô. Ngô được trồng ở nhiều nơi trong nước ta và nhiều nước khác.Thành phần hoá học chính: Saponin, tinh dầu, chất nhầy, muối khoáng.Công dụng: Râu ngô làm thuốc thông tiểu tiện trong các bệnh về tim, đau thận, tê thấp, sỏi thận. Chữa viêm túi mật, chữa viêm gan, vàng da.Cách dùng, liều lượng: Dùng nước sắc râu Ngô hoặc nấu thành cao lỏng ngày uống 10-20g râu Ngô.RAU SAM
Tên khoa học: Portulaca oleracca Lin, họ Rau sam (Portulacaceae). Cây mọc hoang ở những nơi ẩm ướt trong nước ta và nhiều nước khác.Bộ phận dùng: Phần trên mặt đất (Herba Portulacae).Thành phần hoá học chính: Rau sam chứa vitamin A, C, tanin, saponin và men ureaza.Công dụng: Nước sắc Rau sam dùng chữa lỵ trực trùng, giun kim, giun đũa, chữa mụn nhọt, làm thuốc chữa đầy bụng, khó tiêu, lợi tiểu chữa tiểu buốt, tiểu ra máu. Thân, lá được sử dụng làm rau ăn.Cách dùng, liều lượng: Ngày uống 250g tươi (tương đương 50g khô). Dạng thuốc sắc. Trẻ em từ 6 tháng trở lên, uống với liều 50g tươi. Dùng ngoài giã đắp lên mụn nhọt.RÁY
Tên khoa học: Alocasia odora (Roxb.) C. Coch, họ Ráy (Araceae). Cây mọc hoang ở những nơi ẩm ướt trong nước ta và nhiều nước khác.Bộ phận dùng: Thân rễ.Thành phần hoá học chính: Tinh bột, chất gây ngứa.Công dụng: Thân rễ Ráy dùng chế cao dán mụn nhọt, chữa cảm không ra mồ hôi.Cách dùng, liều lượng: Ráy tươi gọt sạch vỏ giã nát cùng với Nghệ tươi, nấu nhừ trong dầu vừng, thêm dầu thông và sáp ong khuấy cho tan. Để nguội phết lên giấy, dán vào nơi mụn nhọt. Dùng thân rễ Ráy giã nát, hơ nóng gói vào trong vải đánh như đánh gió để làm ra mồ hôi.RÁY GAITên khác: Chóc gai, Mớp gai, Rau mác gai, Sơn thục gai.
Tên khoa học: Lasia spinosa (L.) Thw. Syn. Dracontium spinosum L., họ Ráy (Araceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong cả nước, thường mọc thành đám ven bờ ao, bờ suối.Bộ phận dùng: Thân rễ, rửa sạch, phơi khô. Khi dùng, ngâm nước phèn và Gừng, đồ mềm, thái mỏng, sao vàng.Thành phần hoá học chính: Toàn cây chứa saponin triterpenoid, thân rễ chứa nhiều tinh bột.Công dụng: Thân rễ dùng chữa viêm thận phù thũng, đau nhức các khớp xương, đau nhức lưng, đau nhức đầu, các bệnh về gan, viêm gan nhẹ, xơ gan cổ trướng. Còn dùng chữa ho và viêm họng.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 12-20g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.RÁY LEO LÁ RÁCHTên khác: Lân tơ uyn, Đuôi phượng, Dây sống rắn.
Tên khoa học: Raphydophora decursiva (Roxb) Schott, họ Ráy (Araceae). Cây mọc hoang trên các vùng núi đá vôi và trong rừng rậm ở nước ta.Bộ phận dùng: Thân cây.Thành phần hoá học chính: Saponin.Công dụng: Cao lỏng Ráy leo lá rách chữa vết thương phần mềm, chữa bỏng, thuốc bó gẫy xương.Cách dùng, liều lượng: Thân cây Ráy leo lá rách, bỏ lá, cạo hết rễ, rửa sạch, đun nước (1kg trong 1 lít nước), dùng để rửa vết thương. Toàn cây giã nhỏ với các vị thuốc khác tẩm rượu, bó vào chỗ gãy xương, hàng ngày thay thuốc mới.RẺ QUẠT
Tên khoa học: Belamcanda chinensis (L.) DC. syn. Belamcandapunctata Moench, họ Ladơn (Iridaceae). Cây được trồng nhiều nơi trong nước ta để làm cảnh và làm thuốc.Bộ phận dùng: Thân rễ thái phiến phơi hoặc sấy khô (Rhizoma Belamcandae – Xạ can) (1).Thành phần hoá học chính: Một số dẫn chất isoflavonoid (belamcandin, tectoridin…)Công dụng: Kháng khuẩn, tiêu viêm, tiêu đờm. Chữa ho, ho gà, viêm họng, khản tiếng, viêm amidan có mủ. Chữa sốt, thống kinh, đại tiểu tiện không thông, sưng vú, tắc tia sữa, đau nhức tai, rắn cắn.Cách dùng, liều lượng: Mỗi ngày 3-6g sắc uống. Giã nhỏ 10-20g thân rễ Xạ can tươi với muối, ngậm, bã đắp.RẾT (Scolopendra)Tên khác: Ngô công, Rít, Thiên long, Bách túc trùng.
Tên khoa học: Scolopendra morsitans L., họ Ngô công (Scolopendridae).Bộ phận dùng: Cả con.Thành phần hoá học chính: Chất độc gần giống chất độc ở nọc ong (anbumin), các loại protein khác, chất béo.Công dụng: Chữa chín mé (đầu ngón tay sưng đau), chữa mụn nhọt sưng đỏ, đau nhức, áp xe. chữa trĩ, chữa liệt thần kinh nặt, méo mồm, lệch mặt do trúng phong, chữa chân tay co quắp, tê bại, chữa viêm tinh hoàn…Cách dùng, liều lượng: Ngày 1-2g uống trong. Ngâm với dầu vừng bôi ngoài chữa mụn nhọt hay chỗ sưng đau.Chú ý: Không dùng cho phụ nữ có thai.RIỀNG
Tên khoa học: Alpinia officinarum Hance., họ Gừng (Zingiberaceae). Mọc hoang và được trồng khắp nước ta để làm gia vị và làm thuốc.Bộ phận dùng: Thân rễ (Rhizoma Alpiniae officinarum).Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (khoảng 1%), trong đó chủ yếu là cineol, flavonoid.Công dụng: Kích thích tiêu hoá, dùng trong các bệnh đau dạ dày, kém ăn, chậm tiêu, nôn mửa, đầy hơi. Trị sốt rét, báng tích (sưng lá lách). Chữa hắc lào, lang ben.Cách dùng, liều lượng: Ngày 2-10g, dạng thuốc sắc, hoàn, tán, dùng riêng hay kết hợp với các vị thuốc khác. Riềng tươi giã nhỏ, ngâm với cồn 90%, ngày bôi nhiều lần.RIỀNG GIÓTên khác: Gừng gió, Ngải xanh, Cây mai gan, Riềng dại.
Tên khoa học: Zingiber zerumbet (L.) Sm., thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Cây mọc hoang nhiều nơi ở nước ta, trong rừng, nơi đất ẩm ướt.Bộ phận dùng: Thân rễ (Rhizoma Zingiberis zerumbet).Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, nhựa, dầu béo.Công dụng: chữa chứng trúng gió, chóng mặt, nôn nao, ngất xỉu, bồi dưỡng sau sinh, kích thích tiêu hóa, ăn ngon, ngủ tốt, khiến da dẻ trở nên hồng hào. Thân rễ gừng gió có tác dụng điều trị xơ gan cổ trướng đơn thuần.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 20-100g tươi, dạng thuốc sắc, dùng với rượu, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.RONG MƠ (Herba Sargassi)Tên khác: Hải tảo, Rau ngoai, Rau mơ, Rong biển.
Nguồn gốc: Tảo rửa sạch, phơi sấy khô của nhiều loài tảo khác nhau như Dương thê thái (Sargassum fusiforme (Harv) Setch.), Hải khảo tử (Sargassum pallidum Turn. C. Ag.) hoặc một số loài tảo khác thuộc chi Sargassum, họ Rong mơ (Sargassaceae). Cây mọc nhiều ở những dãy núi đá ngầm ven biển nước ta.Thành phần hoá học chính: Muối vô cơ, protid, acid alginic.Công dụng: Rong mơ làm thuốc chữa bướu cổ, chế alginat dùng trong công nghiệp hồ vải sợi. Chữa cao huyết áp, chữa ung thư thực quản và trực tràng, chữa phì đại tuyến tiền liệt gây bí tiểu ở người già.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc.SẢTên khoa học: Cymbopogon spp., họ Lúa (Poaceae).
Bộ phận dùng: Thân rễ và lá.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu chủ yếu là geraniol, citronelal, citral, thay đổi tuỳ từng loại sả.Công dụng: Chữa cảm sốt, đau bụng, đầy hơi, chướng bụng, nôn mửa. Chế tinh dầu, làm hương liệu. Tinh dầu sả trừ muỗi, khử mùi hôi tanh. Làm gia vị.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 50-100g thuốc xông hay thuốc hãm. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Các loài Sả được chia thành 3 nhóm:Nhóm cho tinh dầu Oleum Citronellae, Citronella oil thuộc nhóm này có Sả Java (Cymbopogon winterianus Jawitt), Sả Srilanca – Sả chanh (C. nardus (L.) Rendl,).Nhóm cho tinh dầu Oleum Palmarosae, Palmarosa oil thuộc nhóm này có Cymbopogon martinii Stapf var. motia).Nhóm cho tinh dầu Lemongrass oil, Oleum Cymbopogonis citrati, thuộc nhóm này có loàiCymbopogon citratus Stapf..SÀI ĐẤT
Tên khoa học: Wedelia chinensis (Obs) Merr. = Wedelia calendulaceae Less., họ Cúc (Asteraceae). Cây mọc hoang và được trồng nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Phần trên mặt đất (Herba Wedeliae).Thành phần hoá học chính: Coumarin, flavonoid.Công dụng: Làm thuốc tiêu độc, dùng khi bị rôm sẩy, mụn nhọt sưng tấy, đinh độc, sưng vú, sốt phát ban. Còn dùng chữa viêm họng, viêm phế quản mãn tính và các loại viêm khác.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 20-40g dạng thuốc sắc. Có thể dùng 100g tươi, giã, vắt lấy nước uống 1-2 lần trong ngày, bã đắp vào chỗ sưng đau.SÀI HỒ (Radix Bupleuri)
Nguồn gốc: Là rễ của cây Bắc sài hồ (Bupleurum chinense DC.), hoặc Hiệp hiệp sài hồ (Sài hồ lá hẹp – Bupleurum scorzononaefolium Wild.), họ Cần (Apiaceae). Vị thuốc phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Saponin, tinh dầu.Công dụng: Chữa cảm sốt, ngực sườn đầy tức, sốt rét, chóng mặt nhức đầu, trĩ, rối loạn kinh nguyệt.Cách dùng, liều lượng: 4-8g một ngày, dạng thuốc sắc, hoàn tán. Không dùng cho người huyết áp cao.Chú ý: Trên thực tế chữa bệnh ở Việt Nam người ta dùng rễ phơi sấy khô của cây Sài hồ nam (Pluchea pteropoda Hemsl.), họ Cúc (Asteraceae), còn gọi là cây Lức, Hải sài.Rễ, thân, cành cây Cúc tần (Pluchea indica Less.), họ Cúc (Asteraceae) cũng được dùng với tên gọi Sài hồ nam.SÂM BỐ CHÍNH
Tên khoa học: Hibiscus sagittifolius Kurz var.quinquelobus Gapnep. = Abelmoschus moschatus(L.) Medik.). var. tuberosus (Span.) Borss., họ Bông (Malvaceae). Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi để làm cảnh, làm thuốc.Bộ phận dùng: Rễ (Radix Hibisci Sagittifolii).Thành phần hóa học: Chất nhầy 35-40%, tinh bột.Công dụng: Chữa suy nhược cơ thể, ăn ngủ kém, mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, ho, kinh nguyệt không đều, bạch đới, sốt cách nhật, háo khát.Cách dùng, liều lượng: 4-8g mỗi ngày, dạng thuốc sắc.Chú ý: Cây Sâm báo Hibiscus sagittifolius Kurz var. septentrionalis Gapnep. có hoa màu vàng cũng được dùng như Sâm bố chính. Loài này dễ bị nhầm lẫn với cây Vông vang (Abelmoschus moschatus (L.) Medik.). Cần chú ý phân biệt.SÂM CAU
Tên khoa học: Curculigo orchioides Gaertn. = Curculigo ensifoliaR.Br., họ Sâm cau (Hypoxidaceae). Cây mọc hoang ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta.Bộ phận dùng: Thân rễ (Rhizoma Curculiginis).Thành phần hoá học chính: Chất nhầy, saponin, các hợp chất phenol, sterol, flavonoid.Công dụng: Làm thuốc bổ, chữa phong thấp, đau mình mẩy, thần kinh suy nhược, liệt dương, chữa ho, trĩ, vàng da, đi tiêu chảy, đau bụng. Chữa sốt xuất huyết.Cách dùng, liều lượng: ngày uống 6-12g dưới dạng thuốc sắc,SÂM ĐẠI HÀNH
Tên khoa học: Eleutherine subaphylla Gagnep. =Eleutherine bulbosa (Mill) Urban, họ Lay ơn (Iridaceae). Cây được trồng làm thuốc ở nhiều địa phương nước ta.Bộ phận dùng: Thân hành (Bulbus Eleutherinis subaphyllae).Thành phần hoá học: Các dẫn chất naphtoquinon: eleutherin, isoeleutherin, eleutherol.Công dụng: Chữa thiếu máu, xanh xao, vàng da, mệt mỏi, băng huyết. Chữa ho, viêm phế quản, ho ra máu, ho gà, viêm họng, viêm phổi, viêm amidan. Làm thuốc tiêu độc, chữa viêm họng, mụn nhọt, lở ngứa.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-12g, dạng thuốc sắc, rượu thuốc thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác.SÂM VIỆT NAM
Tên khoa học: Panax vietnamensis Ha et Grushv., họ Ngũ gia (Araliaceae). Cây mọc hoang ở một số vùng núi thuộc các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng.Bộ phận dùng: Thân rễ, rễ củ (Rhizoma et Radix Panacis vietnamensis).Thành phần hoá học chính: Saponin triterpenoid, hợp chất sterol, acid amin, các nguyên tố vi lượng…Công dụng: Làm thuốc bổ như Nhân sâm, chống xơ vữa động mạch, giảm đường huyết, chữa viêm họng.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 1-2g dưới dạng nước sắc, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Chế phẩm Vinapanax (viên) được sản xuất từ Sâm Việt Nam.SA NHÂN (Semen Amomi)
Nguồn gốc: Là hạt phơi khô lấy từ quả chín của nhiều loại Sa nhân (Amomum sp.), họ Gừng (Zingiberaceae). Cây mọc hoang ở một số vùng núi nước ta (1).Thành phần hoá học chính: Tinh dầu 2-2,5% (chủ yếu là borneol, camphor), nhựa, chất béo.SA SÂM (Radix Glehniae)Tên khác: Bắc sa sâm.
Nguồn gốc: Dược liệu là rễ đã bỏ vỏ, phơi hay sấy khô của cây Sa sâm bắc (Glehnia litoralis Fr. Schm.), họ Cần (Apiaceae). Cây vùng ôn đới, vị thuốc nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Đường, tanin, chất béo.Công dụng: Chữa ho, long đờm, chữa sốt cao, miệng khô khát nước.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 16g, dạng thuốc sắc thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác.Ghi chú: Sa sâm còn là rễ của một số cây như Launae pinnatifida Cass., Microrhynchus sarmentosusDS., Prenanthes sarmentosa Willd., họ Cúc (Asteraceae). Trong đó chủ yếu là rễ của cây Launae pinnatifida. Cây này mọc nhiều ven biển và các đảo ở nước ta, các thầy thuốc dùng thay Sa sâm Bắc.Nam sa sâm còn là rễ cây Adenophora verticillata Fisch., họ Hoa chuông (Campanulaceae), mọc ở các ruộng bỏ hoang. Trung Quốc dùng rễ cây này với tên Nam sa sâm, Luân diệp sa sâm, Cát sâm.SÀ SÀNG (Fructus Cnidii)
Nguồn gốc: Dược liệu là quả phơi hay sấy khô của cây Sà sàng (Cnidium monnieri (L.) Cuss. = Selinum monnieri Lin.), họ Cần (Apiaceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, chất béo.Công dụng: Chữa liệt dương, bạch đới, khí hư, lòi dom.Cách dùng, liều lượng: Ngày 4-12g dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.SEN
Tên khoa học: Nelumbium speciosum Wild. =Nelumbo nucifera Gaertn., họ Sen (Nelumbonaceae). Cây được trồng ở các vùng ao hồ khắp nước ta.Bộ phận dùng: Hầu như tất cả các bộ phận của cây Sen đều sử dụng làm thuốc.Lá sen thu hái vào mùa Thu, bỏ cuống dùng tươi hoặc phơi khô (Liên diệp, Hà diệp) – Folium Loti.Cây mầm trong hạt (Liên tâm) – Embryo Nelumbinis.Quả Sen thu khi chín (Thạch liên tử) – Frutus Nelumbinis.Hạt còn màng đỏ bên ngoài (Liên nhục, Liên tử) – Semen Nelumbinis.Thân rễ (Ngó sen, Liên ngẫu) – Nodus Rhizomatis Loti.Gương sen già sau khi lấy quả phơi khô (Liên phòng) – Receptaculum Nelumbinis.Tua nhị (Liên tu) – Stamen Nelumbinis.Thành phần hoá học chính: Alcaloid, flavonoid, acid amin đều có trong các bộ phận: lá sen, tâm sen và gương sen. Ngoài ra trong hạt còn có đường, tinh bột, trong tua sen có flavonoid, trong ngó sen có acid amin, vitamin C và tanin.Công dụng, cách dùng, liều lượng:- Liên diệp, liên phòng làm thuốc cầm máu. Ngày 15-30g dưới dạng thuốc sắc.- Liên tâm dùng làm thuốc ngủ, trấn kinh, chữa thổ huyết. Ngày dùng 4-10g dạng thuốc sắc.- Liên nhục làm thuốc bổ, an thần, dùng trong trường hợp ăn ngủ kém, suy nhược, di mộng tinh. Ngày 10-20g, dạng thuốc sắc, hoàn tán.- Liên tu chữa thổ huyết, băng huyết, di mộng tinh. Ngày 5-10g dưới dạng thuốc sắc. Người ta thường dùng nhị sen tươi để ướp cho thơm chè.SÁP ONG (Cera alba, Cera flava)
Nguồn gốc: Chất sáp do nhiều loài Ong mật Apis sp., họ Ong (Apidae) tiết ra từ các bộ phận bài tiết để xây tổ.Thành phần hoá học: Myricyl palmitat, myricyl cerotata, các alcol myricylic, cerylic và các hydrocarbon khác.Công dụng: Làm tá dược bào chế thuốc mỡ, thuốc sáp.Đông y dùng làm thuốc cầm máu, chữa ung nhọt, lỵ ra máu, các vết thương do bị đánh, trĩ ra máu.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 2-6g, dạng thuốc viên. Phối hợp với các vị thuốc chế cao dánSIM
Tên khoa học: Rhodomyrtus tomentosa (Ait) Hassk. =Rhodomyrtus parviflora Alston, họ Sim (Myrtaceae). Cây mọc hoang ở các vùng đồi.Bộ phận dùng: Búp non, lá, nụ hoa, quả chín.Thành phần hóa học: Cả cây chứa Tanin. Quả có protein, chất béo, glucid, vitamin A…Công dụng: Búp và lá Sim chữa đau bụng, tiêu chảy, chữa lỵ trực khuẩn, chữa ung nhọt, chốc lở. Lá làm thuốc cầm máu, chữa vết thương chảy máu, chữa bỏng. Quả sim chín dùng để chế rượu, chữa thiếu máu ở phụ nữ có thai, suy nhược cơ thế, chữa băng huyết. Rễ sim chữa tử cung xuất huyết, chữa lưng gối yếu, mỏi, viêm thấp khớp.Cách dùng, liều lượng: Ngày 16-30g búp hoặc nụ tươi nhai nuốt nước hoặc khô tán bột sắc uống. Nước sắc đặc lá hoặc búp dùng rửa vết thương, chốc lở.SƠN ĐẬU CĂN (Radix Sophorae flavescens)
Nguồn gốc: Rễ phơi hay sấy khô của cây Khổ sâm (Sophora flavescens Ait., họ Đậu (Fabaceae). Cây mọc ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam.Thành phần hoá học: Rễ Sơn đậu chứa alcaloid (matrin, oxymatrin…), flavonoid.Công dụng: Làm thuốc bổ đắng, lợi tiểu, chữa lỵ. Chữa sưng họng, sưng chân răng, chữa ho, vàng da, táo bón.Cách dùng, liều lượng: Ngày 10-12g dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.SƠN THÙ
Nguồn gốc: Vị thuốc là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Sơn thù du (Cornus officinalis Sieb. et Zucc.), họ Sơn thù du (Cornaceae). Vị thuốc phải nhập hoàn toàn từ Trung QuốcThành phần hoá học chính: Saponin, tanin, acid hữu cơ.Công dụng: Chữa tê thấp, đau lưng mỏi gối, ù tai, tăng huyết áp ở người có bệnh thận. Chữa suy nhược cơ thể, tiểu đường, viêm bàng quang mạn tính, viêm cầu thận mạn tính. Chữa viêm loét dạ dày tá tràng. Chữa liệt dương do rối loạn thần kinh chức năng. Chữa kinh nguyệt không đều.Cách dùng, liều lượng: Ngày 6-12g, dạng thuốc sắc, hoàn, tán, rượu thuốc.Chú ý: Sơn thù loại bỏ hạt gọi thường gọi là Sơn thù nhục hoặc Du nhục.SƠN TRA (Fructus Docyniae)
Nguồn gốc: Dược liệu là quả chín đã thái phiến phơi hay sấy khô của cây Chua chát (Docynia doumeri Schneid.) và Cây táo mèo (Docynia indicaDec.), họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây mọc hoang ở các vùng rừng núi nước ta.Sơn tra Trung Quốc (Fructus Crataegi) là quả của cây Sơn tra (Crataegus pinnatifida var. majorN.E.Br) hoặc dã Sơn tra (Crataegus cybeata Sieb. et Zucc.), họ Hoa hồng (Rosaceae).Thành phần hoá học chính: acid hữu cơ, vitamin, tanin.Công dụng: Chữa đau bụng, đầy bụng do ăn nhiều chất dầu mỡ, thịt cá, tả lỵ, sản hậu huyết ứ, bụng đau.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-10g. Dạng thuốc sắc, dùng riêng hoặc phối hợp các vị thuốc khác.SỪNG DÊ HOA VÀNG
Tên khoa học: Strophanthus divaricatus (Loureiro) Hooker et Arn., Họ Trúc đào (Apocynaceae). Cây mọc phổ biến ở Việt nam, có nhiều ở các tỉnh miền trung (Hà Tĩnh, Nghệ An…)Bộ phận dùng: Hạt phơi hay sấy khô (Semen Strophanthidi divaricati).Thành phần hoá học chính: Glycosid tim, dầu béo.Công dụng: Chiết xuất glycosid tim làm thuốc trợ tim. Dùng trong trường hợp suy tim cấp, phù.Cách dùng, liều lượng: Thuốc tiêm divarin, ống 2ml chứa 0,25mg D-strophantin. Tiêm tĩnh mạch chậm ngày 1-2 ống, liều tối đa 24 giờ là 8 ống. Thuốc độc bảng A, dùng theo chỉ dẫn của thầy thuốc chuyên khoa.Chú ý: Ngoài loài Strophanthus divaricatus ở nước ta còn có một số loài khác thuộc chi Strophanthus có thể nghiên cứu để làm nguồn nguyên liệu chiết xuất glycosid tim.SỬ QUÂN TỬ (Semen Quisqualis)
Nguồn gốc: Là hạt đã phơi hay sấy khô lấy từ quả già của cây Quả giun (Quisqualis indica L.), họ Bàng (Combretaceae).Thành phần hoá học chính: Chất béo, acid quisqualic.Công dụng: Sử quân tử dùng làm thuốc bổ cho trẻ em tiêu hoá kém, gầy yếu, vàng da, bụng ỏng. Trị giun đũa, giun kim, chữa đau nhức răng.Cách dùng, liều lượng: Trị Giun đũa dùng Sử quân tử sao vàng. Người lớn: 10-20 hạt. Trẻ em: mỗi tuổi một hạt, không quá 20 hạt một ngày, ngày dùng một lần, uống liền 3 ngày.Chữa sâu răng, đau nhức răng dùng Sử quân tử sắc nước súc miệng hàng ngày.TẮC KÈ
Tên khác: Cáp giới.Tên khoa học: Gekko gekko L., họ Tắc kè (Gekkonidae). Con Tắc kè sống ở các hốc cây, hốc đá, có nhiều ở các vùng thượng du nước ta như Hà Giang, Tuyên Quang…Bộ phận dùng: Cả con đã loại bỏ nội tạng.Thành phần hoá học chính: Tắc kè chứa nhiều aminoacid, chất béo (13-15%).Công dụng: Thuốc bổ, chữa liệt dương, người già đau lưng mỏi gối, hen suyễn.Cách dùng, liều lượng: Dùng dạng bột hoặc ngâm rượu, dạng bột 3-6g mỗi ngày. Rượu thuốc 10-15ml một ngày.TẦM GỬI (Herba Loranthi)
Nguồn gốc: Thân, cành và lá đã phơi sấy khô của cây Tầm gửi (Loranthus gracilifolius Schult. = Taxillus gracilifolius (Schult.) Ban),họ Tầm gửi (Loranthaceae). Trên thực tế người ta sử dụng nhiều loài Tầm gửi khác nhau.Thành phần hoá học chính: Flavonoid.Công dụng: Chữa tăng huyết áp ở người trẻ hoặc do rối loạn tiền mãn kinh. Chữa tăng huyết áp ở người cao tuổi, tăng huyết áp kèm tăng cholesterol máu. Chữa viêm cầu thận mạn tính. thường dùng chữa phong thấp, đau nhức xương,…Cách dùng, liều lượng: ngày 10-50g dưới dạng nước sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Tầm gửi trên cây Dâu tằm gọi là Tang ký sinhTầm gửi còn được lấy từ các loài Scurrula glacilifolia (Schult.) Dans., Macrosolen tricolor (Lec.) Dans.,Taxillus chinensis (DC.) Dans. (Ramulus Taxilli) Scurrula glacilifolia (Schult.) Dans.; Scurrula parasiticaL. = Loranthus parasiticus (L.) Merr. và nhiều loài khác.TAM LĂNG (Rhizoma Sparganii)
Nguồn gốc: Thân rễ phơi hay sấy khô của cây Tam lăng (Sparganium stoloniferum Buch. Ham.) hoặc cây Tiểu hắc tam lăng (Sparganium racemosumHuds-Scirpus yagara Ohwi), họ Tam lăng (Sparganiaceae). Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Tinh bột.Công dụng: Tam lăng dùng chữa bụng đầy trướng, thuỷ thũng, ngực sườn đau tức. Chữa các bệnh kinh bế, làm thông kinh nguyệt. Chữa kiết lỵ.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 3-12g, dùng dạng thuốc sắc, kết hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Phụ nữ có thai không được dùng.TAM PHỎNG
Tên khoa học: Cardiospermum halicacabum L., họ Bồ hòn (Sapindaceae). Cây mọc hoang nhiều nơi ở nước ta.Bộ phận dùng: Phần trên mặt đất (Herba Cardiospermum), rễ Tam phỏng cũng được dùng làm thuốc.Thành phần hoá học chính: Cành, lá Tam phỏng chứa flavonoid, saponin steroid.Công dụng: Chữa cảm sốt, viêm đường tiết niệu, viêm thận, tê thấp, phù thũng. Chữa đau mình mẩy, chữa các vết thương phần mềm, chữa tiểu đường…Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g dược liệu khô dưới dạng nước sắc, thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác. Nước sắc rễ làm thuốc lợi tiểu, ra mồ hôi.Chú ý: Quả Tam phỏng chín, khô có khi được dùng để giả mạo vị thuốc Màn kinh tử.TAM THẤT (Radix Notoginseng)
Nguồn gốc: Dược liệu là rễ phơi khô của cây Tam thất (Panax notoginseng (Burk.) F. H. Chen, họ Ngũ gia (Araliaceae). Cây mọc hoang và được trồng ở vùng núi cao phía Bắc nước ta. Dược liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: SaponinCông dụng: Thuốc bổ, cầm máu (chữa thổ huyết, băng huyết, rong huyết , sau đẻ máu hôi không ra hết, lỵ ra máu), ung nhọt, sưng do chấn thương, thiếu máu nặng, mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu. Kinh nghiệm dân gian Tam thất có thể chữa được một số trường hợp ung thư (ung thư vú, ung thư máu…).Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-8g. Dạng thuốc sắc, hầm với thức ăn hoặc thuốc bột. Dùng ngoài có tác dụng cầm máu tại chỗ.Ghi chú:Người ta còn dùng hoa, quả Tam thất pha uống như uống chè.Một số dược liêu mang tên Tam thất:- Thổ tam thất (Tam thất giả) là rễ củ của cây Gynura pseudochina DC.= Cacalia bulbosa Lour., họ Cúc (Asteraceae). Cây mọc hoang và được trồng ở nước ta. Rễ củ làm thuốc điều kinh, thái lát, phơi khô được dùng với tên gọi Bạch truật nam. Lá Thổ tam thất giã đắp chữa mụn nhọt, sắc uống chữa đau bụng.- Tam thất nam là thân rễ cây Stahlianthus thoreli Gagnep., họ Gừng (Zingiberaceae). Cây mọc hoang ở một số vùng núi phía Bắc và được trồng ở nhiều địa phương nước ta.TAM THẤT GỪNG
Tên khoa học: Kaempferia rotunda L., Kaempferia longa Jacq họ Gừng (Zingiberaceae). Cây mọc hoang ở vùng núi và được trồng làm cảnh, làm thuốc.Bộ phận dùng: Thân rễ (Rhizoma Kaempferiae Rotundae). thu hái vào mùa Đông-Xuân, rửa sạch, thái phiến phơi khô.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu.Công dụng: Bổ huyết, điều kinh, cầm máu, giảm đau, giải độc, làm thuốc chữa kinh bế đau bụng, rối loạn kinh nguyệt, người gầy sạm. Còn dùng chữa đau dạ dày, đại tiện ra máu, sơn lam chướng khí, lở láy, ngộ các loại độc, đau xương và nhất là đau bụng. lá làm thuốc đắp các vết thương. Thân rễ được dùng làm thuốc lợi tiêu hoá, dùng đắp tiêu sưng viêm, mưng mủ, cả cây dùng trị đòn ngã tổn thương.Cách dùng, liều lượng: Liều 6-13g, dạng thuốc sắc, hoặc dùng 6-12g bột uống với nước cơm, phối hợp các vị khác.TÂN DI (Flos Magnoliae liliflorae)
Nguồn gốc: Tân di là nụ hoa đã phơi khô của cây Mộc lan (Magnolia liliflora Desr.) họ Ngọc lan (Magnoliaceae). Cây này không có ở Việt Nam, vị thuốc nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu.Công dụng: Chữa nhức đầu, chảy nước mũi, viêm mũi, viêm xoang, dị ứng.Cách dùng, liều lượng: Ngày 3-6g, dạng thuốc sắc, hoặc hoàn, tán thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác. Dùng ngoài lượng vừa đủ tán nhỏ bôi vào vải gạc nút vào mũi chữa viêm xoang, dị ứng.TẦN GIAO (Radix Gentianae macrophyllae)
Nguồn gốc: Rễ phơi hay sấy khô của cây Tần giao (Gentiana macrophylla Pallas.) và một số loài Tần giao khác, họ Long đởm (Gentianaceae).Thành phần hoá học chính: Alcaloid (gentianin A,B,C), iridoid glycosid.Công dụng: Chữa phong thấp tê đau, chân tay co quắp, vàng da, xương cốt đau nhức và nóng, trẻ con cam nhiệt.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-10g, dạng thuốc sắc, hoàn, tán. Thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác.TÁO NHÂN (Semen Ziziphi mauritianae)
Nguồn gốc: Vị thuốc là hạt già phơi hay sấy khô của cây Táo ta, còn gọi là Táo chua (Ziziphus mauritiana Lamk. = Ziziphus jujuba Lamk.), họ Táo ta (Rhamnaceae). Cây được trồng để lấy quả ăn, hạt bỏ ra được xay lấy nhân làm thuốc.Thành phần hoá học:Nhân hạt chứa dầu béo, phytosterol, saponin. Lá có rutin.Công dụng: Táo nhân dùng làm thuốc ngủ, an thần. Lá táo chữa viêm phế quản, đắp ngoài chữa lở loét, ung nhọt.Cách dùng, liều dùng: Người lớn uống 15-20 hạt có tác dụng trấn tĩnh và gây ngủ. Táo nhân sao đen (Hắc táo nhân) dùng dạng thuốc sắc, phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Táo nhân Trung Quốc (Semen Ziziphi spinosae) là nhân hạt của cây Toan táo (Ziziphus jujubaMill. var. spinosa (Bunge) Hu ex H. F. Chou). Một số địa phương nước ta sử dụng hat Keo giậu với tên Nam táo nhân (xem Keo giậu).TÊ GIÁC (Cornu Rhinoceri)
Nguồn gốc: Sừng của một số loài Tê giác nhưRhinoceros unicornis L., Rhinoceros sondaicusDesmarest, Rhinoceros sumatrensis Fischer., họ Tê giác (Rhinocerotidae).Thành phần hoá học chính: Sừng chứa keratin, calci carbonat, calci photsphat, acid amin.Công dụng: Chữa các bệnh xuất huyết như nôn ra máu, chảy máu cam, xuất huyết dưới da. Chữa sốt, mê sảng, co giật.Cách dùng, liều lượng: Cưa Sừng tê thành mẩu nhỏ, ngâm nước hoặc đồ chín rồi thái lát hoặc mài, tán thành bột. Ngày uống 0,2-0,5g.Chú ý: Trong y học cổ truyền người ta thường thay Sừng tê bằng Sừng trâu (Cornu Bubali).Không dùng phối hợp Tê giác với Thảo ô và Xuyên ô.TẾ TÂN (Herba Asari)
Nguồn gốc: Dược liệu là toàn cây đã phơi khô của cây Liêu tế tân (Asarum heterotropoides F.Schm.var mandschuricum (Maxim.) Kitag), Hoa tế tân (Asarum sieboldi Miq.), họ Mộc hương (Aristolochiaceae). Vị thuốc Tế tân phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (gần 3%), trong đó có pinen, methyleugenol.Công dụng: Chữa cảm lạnh, đau răng, nhức đầu, đau nhức xương, viêm mũi chảy nước hôi.Cách dùng, liều lượng: Ngày 1-4g. Ngâm rượu hoặc sắc, dùng riêng hay phối hợp các vị thuốc khác.THẠCH (Agar – agar)
Nguồn gốc: Chất nhầy phơi khô chế từ một số loại Rau câu (Gracilaria sp., Gelidium sp.) thuộc ngành Tảo đỏ (Rhodophyta). Các loại Rau câu có nhiều ở bờ biển nước ta.Thành phần hoá học chính: Chất nhầy.Công dụng, cách dùng: Chữa táo bón kéo dài ngày 4-16g. Chế môi trường nuôi cấy vi sinh. Làm chất ổn định nhũ dịch. Làm bánh kẹo, giải khát. Dùng trong kỹ nghệ dệt và giấy.Thạch chiết từ Rau câu thường được chế thành những sản phẩm trung gian tiện dùng, có thể là phiến, bột hoặc sợi. Dạng phiến và sợi có màu vàng nhạt hay không màu, gần như trong suốt. Dạng bột màu trắng, sờ ráp tay. Các dạng nay ít tan trong nước lạnh, nở, tan trong nước sôi.THẠCH HỘC (Herba Dendrobii)
Nguồn gốc: Vị thuốc là thân phơi sấy khô của một số loài Thạch hộc như Hoàn thảo thạch hộc (Dendrobium loddigesii Rolfe), Mã tiên thạch hộc (Dendrobium fimbriatum Hook.), Hoàng thảo thạch hộc (Dendrobium chrysanthum Wall. ex Lindl.), Thiết bì thạch hộc (Dendrobium candidum Wall. ex Lindl.), Kim thoa thạch hộc (Dendrobium nobile Lindl.), họ Lan (Orchidaceae).Thành phần hoá học chính: Thạch hộc chứa alcaloid (dendrobin), chất nhầy, saponin.Công dụng, liều dùng: Thuốc bổ dưỡng dùng cho người hư lao, gầy yếu, chữa liệt dương, mắt nhìn kém, đau khớp, đau lưng, tay chân nhức mỏi. Ngày 8-16g dưới dạng thuốc sắc, bột.THANH CAO (Herba Artemisia carvifoliae)Nguồn gốc: Cành mang lá, hoa đã phơi khô của cây Thanh cao (Artemisia carvifolia Wall. = Artemisia apiacea Hance), họ Cúc (Asteraceae). Cây này mọc hoang ven sông Hồng và ven một số sông ở Lạng Sơn. Vị thuốc ít được dùng.
Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, alcaloid.Công dụng: Chữa sốt, lở ngứa.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 5-12g dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán.Chú ý: Không nhầm cây này với cây Thanh hao hoa vàng (Artemisia annua L.) (xem 352. Thanh hao hoa vàng) lá dùng để chiết artemisinin, và cây Thanh hao (Baeckea frutescens L.) cành dùng để cất tinh dầu (xem 77. Cây chổi xể).THANH HAO HOA VÀNG (Herba Artemisiae annuae)
Tên khoa học: Artemisia annua L., họ Cúc (Asteraceae). Cây được trồng nhiều ở một số địa phương nước ta.Bộ phận dùng: Phần trên mặt đất.Thành phần hoá học: Sesquiterpenlacton, tinh dầu.Công dụng: Nhân dân thường dùng Thanh hao để trị sốt, vàng da, đổ máu cam, đi ngoài ra máu, mụn nhọt lở ngứa, ăn không ngon, tiêu hoá kém.Người ta dùng lá của cây này làm nguyên liệu chiết xuất artemisinin làm thuốc chống sốt rét. Từ artemisinin bán tổng hợp ra artesunat, dạng viên nén và thuốc tiêm.Cách dùng, liều lượng: Ngày 6-12g, dạng thuốc sắc.Chú ý: Đông y dùng cành mang lá, hoa phơi khô của cây Artemisia carvifolia Wall. = Artemisia apiaceaHance. với tên gọi Thanh cao, Thanh hao.THÀNH NGẠNHTên khác: Cúc lương, Đỏ ngọn, Hoàng ngưu trà, Lành ngạnh, Ngành ngạnh, Vàng la.
Tên khoa học: Cratoxylum prunifolium Dyer, họ Măng cụt (Clusiaceae). Cây mọc phổ biến ở nước ta trên các bãi hoang, đồi trọc, hay trên các nương rẫy cũ.Bộ phận dùng: Lá non, vỏ thân, rễ.Thành phần hoá học chính: Flavonoid, saponin, tanin.Công dụng: Làm thuốc bổ, kích thích tiêu hoá, phục hồi sức khoẻ khi đau yếu hay sau khi sinh đẻ. Trị cảm mạo, sốt, ho, khản cổ. Lá dùng trị đau dạ dày, ngứa lở. Lá non có thể sắc uống thay chè, để phòng cảm nắng và bệnh lỵ. Rễ và vỏ thân dùng trị bệnh về mắt, đau mắt đỏ.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 10-20g khô, 50-100g tươi, dạng thuốc sắc, thường dùng phối hợp với các vị khác.THANH TƯƠNG TỬ (Semen Celosiae)
Nguồn gốc: Hạt chín phơi khô của cây Mào gà trắng (Celosia argentea L.), họ Rau dền (Amaranthaceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Thành phần hoá học chính: Hạt chứa polysaccarid là celosian.Công dụng: Chữa trĩ ra máu, chữa đau mắt sưng đỏ, trĩ ra máu. Chất celosian có tác dụng bảo vệ gan, điều hoà miễn dịch.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g hạt dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Lá cây Mào gà trắng được dùng phối hợp với các vị thuốc khác để chữa hen phế quản.THẢO QUẢ (Fructus Amomi aromatici)
Nguồn gốc: Là quả chín phơi khô của cây Thảo quả (Amomum aromaticum Roxb. = Amomum medium Lour. = Amomum tsao-ko Crévost et Lem.), họ Gừng (Zingiberaceae). Cây mọc hoang và được trồng ở một số vùng núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (1-1,5%).Công dụng: Chữa đau bụng đầy chướng, ngực đau, tiêu chảy, ho có nhiều đờm, đờm đặc gây khó thở. Làm gia vị, cất tinh dầu làm hương liệu.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-8g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp các vị thuốc khác.Chú ý: Một số tài liệu quy định Thảo quả là quả chín phơi khô của cây Amomun tsao-ko Crévost et Lem. (Fructus Amomi tsao-ko), hoặc Amomum costatum Benth.THẢO QUYẾT MINH (Semen Cassiae torae)
Nguồn gốc: Hạt già đã phơi hay sấy khô của cây Thảo quyết minh (Cassia tora L.), họ Vang (Caesalpiniaceae). Cây mọc hoang và được trồng nhiều nơi ở nước ta.Thành phần hoá học chính: Anthranoid, dầu béo.Công dụng: Chữa đau mắt đỏ, quáng gà, nhức đầu, cao huyết áp, mất ngủ, táo bón.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g hạt Thảo quyết minh, dùng dạng thuốc sắc hoặc giã giập, pha hãm như chè. (Thảo quyết minh sao vàng chữa các chứng cao huyết áp, sao đen chữa đau mắt đỏ, chữa mất ngủ).Chú ý: Người bị tiêu chảy không dùng Thảo quyết minh.THĂNG MA (Rhizoma Cimicifugae)
Nguồn gốc: Dược liệu là thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây Thăng ma (Cimicifuga dahuricaMaxim.), Đại tam điệp thăng ma (Cimicifuga heracleifolia Komar.), Tây thăng ma (Cimicifuga foetida L.), họ Hoàng liên (Ranunculaceae). Vị thuốc phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Chất đắng (Cimitin C20H34O7), alcaloid.Công dụng: Chữa các chứng sa giáng (sa dạ dày, dạ con, trực tràng…), nhức đầu nóng rét, đau họng, mụn lở trong miệng, tả lỵ lâu ngày, ban sởi không mọc hết.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-10g dạng thuốc sắc.Chú ý: Trên thị trường hiện nay dùng thân rễ cây (Strobilanthes forrestii Diels., họ Ô rô (Acanthaceae) với tên gọi Thăng ma.THẤT DIỆP ĐỞM (Herba Gynostemmae pedatae)
Nguồn gốc: Phần trên mặt đất phơi sấy khô của cây Thất diệp đởm (Gynostemma pedata Bl. =Gynostemma pentaphyllum Makino), họ Bí (Cucurbitaceae). Cây mọc hoang nhiều nơi ở nước ta và được trồng ở các vùng khí hậu mát.Thành phần hoá học chính: Sterol, sắc tố, đường, saponin, flavonoid,Công dụng: Chữa viêm gan truyền nhiễm, viêm bể thận, loét dạ dày và hành tá tràng. Chữa viêm khớp do phong thấp, bệnh béo phì. Thất diệp đởm còn được dùng làm thuốc chống lão hoá, thuốc điều trị ung thư…Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-10g dạng thuốc sắc hoặc hãm với nước uống thay chè.Chú ý: Cổ yếm lá bóng [(Gynostemma laxum (Wall) Cogn] cũng được dùng với cùng công dụng.THẦU DẦU
Tên khoa học: Ricinus communis L., họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều địa phương nước ta.Thành phần hoá học chính: Dầu béo (50%), protein (26%), trong đó có ricin là 1 protein độc, ricinin…Công dụng, cách dùng: Hạt ép lấy dầu, dầu thầu dầu có tác dụng nhuận và tẩy. Ngày dùng 2-10g có tác dụng nhuận, 10-30g có tác dụng tẩy. Acid undecilenic thu được bằng cách cracking dầu Thầu dầu làm thuốc trị nấm ngoài da. Hạt Thầu dầu giã nhỏ làm cao dán chữa viêm hạch cổ, viêm tuyến vúTHỊ ĐẾ (Calyx Kaki)
Nguồn gốc: Đài đồng trưởng đã phơi hay sấy khô thu được từ quả chín của cây Hồng (Diospiros kakiL. f. = Diospiros chinensis Blume), họ Thị (Ebenaceae).Thành phần hoá học chính: Tanin, acid hữu cơ.Công dụng: Chữa nấc, đầy bụng khó tiêu, chữa tiểu dầm, tiểu nhiều về đêm. Chữa tiêu chảy, cao huyết áp, chữa trĩ.Cách dùng, liều lượng: 8-12g dưới dạng nước sắc, dùng riêng hay kết hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Thị tất (Succus Kaki siccatus) là nước ép từ quả Hồng chưa chín phơi hay sấy khô dùng chữa cao huyết áp.Thị sương (Saccharum Kaki) là chất đường lấy từ quả Hồng dùng chữa ho, đau cổ họng, cổ họng khô.THIÊN HOA PHẤN (Radix Trichosanthis)Tên khác: Qua lâu căn.
Nguồn gốc: Rễ phơi hay sấy khô của cây Qua lâu (Trichosanthes sp.), họ Bí (Cucurbitaceae). Cây mọc hoang ở vùng núi nước ta, vị thuốc nhập từ Trung quốc.Thành phần hoá học chính: Saponosid, tinh bột.Công dụng: Chữa sốt nóng, chữa trẻ con vàng da. Chữa tiểu đường, chữa ho gà, quai bị. Chữa phụ nữ đẻ sữa không xuống. Chữa viêm họng, miệng khô, viêm amidan mạn tính.Cách dùng, liều lượng: Ngày uống 8-16g dạng thuốc sắc.Chú ý: Nhiều bộ phận khác của cây cũng được dùng làm thuốc (xem 288. Qua lâu nhân).THIÊN MA (Rhizoma Gastrodiae elatae)
Nguồn gốc: Dược liệu là thân rễ đã làm khô của cây Thiên ma (Gastrodia elata Bl.), họ Lan (Orchidaceae). Cây này chưa thấy ở nước ta, vị thuốc nhập từ Trung Quốc.Bộ phận dùng: Thân rễ thu hái vào mùa Đông – Xuân, rửa sạch, đồ rồi đem phơi ở nhiệt độ thấp.Thành phần hoá học chính: Thành phần chủ yếu là gastrodin, tinh bột, acid hữu cơ, sistosterol.Công dụng: Chữa nhức đầu, hoa mắt (huyết áp cao), ù tai, bán thân bất toại, chân tay co quắp, méo mồm, lệch mặt, nói năng, phát âm khó khăn.Cách dùng, liều lượng: Ngày 4-10g dạng thuốc sắc dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.THIÊN MÔN ĐÔNG (Radix Asparagi)
Nguồn gốc: Rễ củ đã đồ chín, rút lõi, phơi sấy khô của cây Thiên môn đông Asparagus cochinchinensis (Lour.) Merr. = Asparagus lucidusLindl., họ Thiên môn đông (Asparagaceae).Thành phần hoá học chính: Rễ củ Thiên môn đông chứa saponin steroid, flavonoid (rutin) phytosterol, polysaccarid, acid amin (asparagin).Công dụng: Thuốc bổ, chữa ho gà ở trẻ em, chữa ho có đờm, thổ huyết. Chữa táo bón, đại tiện khó khăn.Cách dùng, liều lượng: Ngày 10-20g dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.THIÊN NAM TINH (Rhizoma Arisaematis)
Nguồn gốc: Dược liệu là thân rễ của cây Thiên nam tinh (Arisaema consanguineum Schott.) và một số cây thuộc chi này (Arisaema heterophyllumBlume, Arisaema thunbergir Bl., Arisaema amurenseMaxim., Arisaema balansae Engl.), họ Ráy (Araceae).Thành phần hoá học: Tinh bột, saponin, chất nhầy.Công dụng: Chữa ho có đờm, đầy bụng, ăn không tiêu, chữa nôn nhiều, chân tay lạnh. Chữa trúng phong bất tỉnh, méo miệng. Thiên nam tinh giã nát, thêm giấm, đắp tại chỗ chữa sưng tấy do hạch, lở ngứa, mụn nhọt, rắn cắn.Cách dùng, liều lượng: Trước khi dùng phải chế với gừng tươi và phèn chua đến khi gần hết ngứa. Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc, hoàn, tán.Chú ý: Phụ nữ có thai không được dùng Thiên nam tinh.THIÊN NIÊN KIỆN (Rhizoma Homalomenae)
Nguồn gốc: Dược liệu là thân rễ phơi hay sấy khô của cây Thiên niên kiện, còn có tên là Sơn thục, Bao kim (Homalomena aromatica Schott.), họ Ráy (Araceae). Cây mọc hoang ở nước ta, dưới các tán rừng nhiệt đới ẩm ướt.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (0,8-1%), trong đó thành phần chính là linalol, terpineol.Công dụng: Chữa tê thấp, làm mạnh gân cốt, kích thích tiêu hoá. Chữa người già đau khớp xương, chữa đau bụng kinh, chữa dị ứng, mẩn ngứa, lở sơn. Cất tinh dầu làm hương liệu.Cách dùng, liều lượng: 5-10g một ngày, dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác.THIÊN TRÚC HOÀNG (Concretio Silicea Bambusae)Nguồn gốc: Cặn silic lắng đọng lại trong các gióng cây tre hoặc nứa già (Bambusa sp.), họ Lúa (Poaceae)
Thành phần hoá học chính: Muối silic.Công dụng: Chữa sốt cao ở người lớn, kinh giật ở trẻ emCách dùng, liều lượng: 1-2g một ngày, dạng thuốc sắc kết hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Nhiều bộ phận của cây tre được sử dụng làm thuốc:Trúc lịch là vị thuốc chế bằng cách chặt tre tươi, non cắt thành từng đoạn, nướng, vắt lắy nước. Trúc lịch dùng chữa hen suyễn, sốt cao.Lá tre xanh (Folium bambusae) dùng để chiết clorophin làm chất nhuộm màu xanh cho mỹ phẩm, dược phẩm.Trúc nhự (Caulis bambusae in Taeniam) là phần tinh tre, chế bằng cách cạo bỏ lớp vỏ xanh của thân tre, chẻ phân thành từng phoi mỏng rồi phơi khô.THỔ HOÀNG LIÊN
Tên khoa học: Thalictrum foliolosum DC., họ Hoàng liên (Ranunculaceae). Cây mọc nhiều ở vùng Tây Bắc nước ta.Bộ phận dùng: Thân rễ (Rhizoma Thalictri).Thành phần hoá học chính: Thân rễ Thổ hoàng liên chứa berberin (0,35%), palmatin (0,02%)…Công dụng: Chữa lỵ amip và lỵ trực trùng. Chữa chứng vàng da, chữa đau mắt, mụn nhọt.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-6g chia làm 2 hoặc 3 lần uống dưới dạng thuốc bột hay làm thành viên. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.- Thổ hoàng liên (Thalictrum foliolosum DC.), họ Hoàng liên (Ranunculaceae), thuốc chữa lỵ, vàng da, công dụng như Hoàng liên nhưng yếu hơn.THÔNG
Tên khoa học: Pinus mercusii Jungh et De Vries và một số loài khác thuộc chi Pinus, họ Thông (Pinaceae).Bộ phận dùng: Nhựa lấy từ thân cây.Thành phần hoá học: Nhựa chứa khoảng 20% tinh dầu, thành phần chủ yếu của tinh dầu là alpha pinen. Nhựa sau khi cất tinh dầu còn lại Tùng hương (colophan). Tùng hương chủ yếu gồm các acid nhựa (acid dextropimaric, acid levopimaric…)Công dụng: Nhựa thông chữa hen suyễn, chữa ho, chữa vết thương, mụn nhọt, ghẻ lở. Sử dụng trong công nghiệp sơn. Tinh dầu thông làm nguyên liệu bán tổng hợp một số chất thơm dùng trong công nghiệp.Cách dùng, liều lượng: Thường dùng Tùng hương nấu cao dán nhọt, dán lên các huyệt.THÔNG THẢO (Medulla Tetrapanacis)
Nguồn gốc: Vị thuốc là lõi thân đã phơi hay sấy khô của cây Thông thảo (Tetrapanax papyrifera(Hook) K. Koch. = Aralia papyrifera Hook.), họ Ngũ gia (Araliaceae). Cây mọc hoang ở các vùng rừng, núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Thông thảo chứa cellulose, protein, chất béo.Công dụng: Thông thảo thường dùng để chữa tiểu tiện bí tắc, tiểu tiện đau, nước tiểu đỏ. Chữa phù nề, làm thuốc lợi sữa khi đẻ không ra sữa, ít sữa.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 3-10g dạng thuốc sắc. Thường phối hợp trong các phương thuốc lợi sữa.Chú ý: Phụ nữ có thai không được dùngTHÔNG THIÊN
Tên khoa học: Thevetia peruviana (Pers.) K. Schum. = Thevetia neriifolia Juss., họ Trúc đào (Apocynaceae). Cây được trồng làm cảnh nhiều nơi ở nước ta.Bộ phận dùng: Hạt (Semen Thevetiae).Thành phần hoá học chính: Hạt Thông thiên chứa glycosid tim, flavonoid, dầu béo.Công dụng: Chiết xuất thevetin làm thuốc cường tim.Cách dùng, liều lượng:Dung dịch cồn thevetin 1/1000 để uống.Dung dịch 1/100 tiêm tĩnh mạch.Chú ý: Thuốc độc bảng A. Dùng theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc chuyên khoa.THỔ NHÂN SÂM
Tên khác: Thổ Cao ly sâm. Đông dương sâmTên khoa học: Talinum patens L. = Talinum paniculatum (Jacq.) Gaertn., họ Rau sam (Portulacaceae). Cây mọc hoang và được trồng nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Rễ phơi sấy khô.Thành phần hoá học chính: Chất nhầy, các glycosid, stigmasterol, õ-sistosterol…Công dụng: Thổ nhân sâm dùng làm thuốc bổ khi cơ thể suy nhược, ốm yếu, chữa tiểu dầm, tiểu nhiều, phụ nữ kinh nguyệt không đều. Chữa bệnh về phổi như ho, sốt nóng, mồ hôi trộm. Chữa tiêu chảy ở trẻ em.Cách dùng, liều lượng: Ngày 6-12g dạng thuốc sắc, thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác.THỔ PHỤC LINH (Rhizoma Smilacis glabrae)
Tên khác: Khúc khắc, Kim cang.Nguồn gốc: Dược liệu là thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây Thổ phục linh (Smilax glabra Roxb.), họ Khúc khắc (Smilacaceae).Thành phần hoá học: Thân rễ Thổ phục linh chứa saponin steroid, flavonoid, tanin, tinh bột.Công dụng: Chữa phong thấp, thấp khớp, gân xương co quắp, lợi tiểu, phù thũng. Chữa nước ăn chân, tổ đỉa, vẩy nến, mụn nhọt lở ngứa. Chữa viêm loét dạ dày tá tràng…Cách dùng, liều lượng: Ngày uống 12-20g. Dạng thuốc sắc hay thuốc bột, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.THỔ TAM THẤT
Tên khoa học: Gynura pseudochina DC. Syn. Cacalia bulbosaLour., họ Cúc (Asteraceae). Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều địa phương nước ta.Bộ phận dùng: Rễ củ để nguyên hoặc thái lát, phơi khô.Thành phần hoá học chính: Alcaloid.Công dụng: Rễ củ làm thuốc bổ, cho phụ nữ sau sinh đẻ, làm thuốc điều kinh. Làm thuốc chữa sốt, cầm máu (chữa thổ huyết, băng huyết, rong huyết, lỵ ra máu), ung nhọt.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-8g. Dạng thuốc sắc, hầm với thức ăn hoặc thuốc bột.Ghi chú: Rễ củ một số loài thuộc chi Gynura được dùng với tên gọi Bạch truật nam.THỎ TY TỬ (Semen Cuscutae)
Nguồn gốc: Dược liệu là hạt chín phơi khô của cây Thỏ ty – Dây tơ hồng (Cuscuta sinensis Lamk.), họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Dây tơ hồng có ở nhiều nơi trong nước ta, ký sinh trên những cây khác, tuy vậy vị thuốc Thỏ ty tử ta phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Chất nhầy.Công dụng: Làm thuốc bổ trong trường hợp cơ thể suy nhược, lưng gối đau mỏi, di tinh, tiểu đêm nhiều lần, tiểu vãi, tiểu sót. Nước sắc dùng ngoài trị mụn nhọt, sang lở ở trẻ em.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc.THƯƠNG LỤC (Radix Phytolaccae)
Tên khoa học: Phytolacca esculenta Van Hout., họ Thương lục (Phytolaccaceae). Cây di thực, trồng làm cảnh, làm thuốc. Loài Phytolacca decandra L.mọc hoang ở một số địa phương nước ta cũng được dùng làm thuốc.Bộ phận dùng: Rễ.Thành phần hoá học chính: Rễ Thương lục chứa saponosid, muối vô cơ, phytolaccatoxin.Công dụng: Chữa phù nề, ngực bụng đầy trướng.Cách dùng, liều lượng: Ngày 3-4g dưới dạng thuốc sắcChú ý: Thuốc có độc, không dùng cho phụ nữ có thai.THƯỜNG SƠN (Radix Dichroae)
Nguồn gốc: Dược liệu rễ đã phơi hay sấy khô của cây Thường sơn (Dichroa febrifuga Lour.), họ Thường sơn (Saxiflagaceae). Cây mọc hoang ở những vùng núi cao.Thành phần hoá học: Các alcaloid nhân quinazolin (febrifugin, isofebrifugin…).Công dụng: Chữa sốt rét, gây nôn trong các trường hợp ngộ độc thức ăn.Cách dùng, liều lượng: Ngày uống 6-12g thường dùng dạng thuốc sắc kết hợp với các vị thuốc khác.THƯƠNG TRUẬT (Rhizoma Atractylodis)
Nguồn gốc: Là thân rễ khô của cây Thương truật (Atractylodes lancea (Thunb.) DC.) hoặc cây Bắc thương truật (Atractylodes chinensis (DC.) Koidg.), họ Cúc (Asteraceae). Cây có di thực vào nước ta, dược liệu nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (có thể đến 9%), trong đó có atractylol, atractylen.Công dụng: Giúp tiêu hoá, dùng trong trường hợp bụng chướng, buồn nôn, ăn không tiêu.Trừ phong thấp, xương cốt đau nhức, đau khớp, phối hợp với vị thuốc Phòng phong.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 5-10g, dạng thuốc sắc hay thuốc bột.THƯỜNG XUÂN
Tên khác: Dây thường xuân, Thường xuân đằng.
Tên khoa học: Hedera nepalensis K. Koch var. sinensis (Tobl.) Rehd., Hedera helix L., họ Nhân sâm (Araliaceae). Cây phát triển nhanh, được trồng làm cảnh, khử khí độc trong nhà.Bộ phận dùng: Thân dây (Caulis Helerae Sinensis), lá thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô dùng dần.Thành phần hoá học chính: Thân cây có tanin và nhựa. Lá chứa hederin, là thành phần hoạt chất chính làm giãn cơ trơn phế quản, giảm độ nhớt dịch nhày giúp long đờm và giảm ho.Công dụng: Vị đắng, cay, tính ấm, có tác dụng khu phong, lợi thấp, bình can, giải độc. Quả, hạt chữa phong thấp, đau lưng. Dây dùng trị viêm khớp đau nhức, viêm gan, đau đầu, nôn ra máu, mắt mờ, nhọt độc sưng đau. Lá dùng làm thuốc điều trị bệnh đường hô hấp, dùng chườm nóng trị sưng hạch, làm kem dưỡng da.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 10-15g, dạng thuốc sắc, ngâm rượu, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.THUYỀN THOÁI (Periostracum Cicadae)
Nguồn gốc: Vị thuốc là xác lột của con ve sầu (Criptotympana pustulata Fabricius), họ Ve sầu (Cicadidae).Thành phần hoá học chính: Thuyền thoái chứa chất kitin.Công dụng: Chữa cảm sốt, đậu sởi, sốt phát ban, trẻ em kinh phong co giật, đau mắt có màng.Cách dùng, liều lượng: Ngày 2-6g dạng thuốc sắc, hoàn tán, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: – Không dùng Thuyền thoái cho phụ nữ có thai.- Xác của nhiều loài ve sầu khác nhau cũng được dùng với tên gọi Thuyền thoái, và cùng công dụng, không phân biệt.TÍA TÔ
Tên khoa học: Perilla ocymoides L. = Perilla frutescens (L.) Britton, họ Bạc hà (Lamiaceae). Cây được trồng ở khắp nơi để làm thuốc và làm rau ăn.Bộ phận dùng: Quả chín phơi khô (Tô tử – Fructus Perillae – dân gian gọi là hạt), lá (Tô diệp – Folium Perillae), cành (Tô ngạnh –Caulis Perillae).Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, trong đó có perila aldehyd, limonen, trong hạt có dầu.Công dụng: Lá có tác dụng làm ra mồ hôi, chữa ho, giúp tiêu hoá, chữa cảm cúm. Cành tác dụng như lá nhưng kém hơn. Quả Chữa ho, trừ đờm, hen suyễn, tê thấp. Bộ phận trên mặt đất làm rau, gia vị.Cách dùng, liều lượng:Liều dùng hàng ngày lá và hạt 3-10g, cành 6-20g dạng thuốc sắc, dùng riêng hoặc phối hợp với các thuốc khác.TÌ BÀ (Folium Eriobotryae japonicae)Tên khác: Tì bà diệp.
Nguồn gốc: Lá khô của cây Nhót tây hay Nhót Nhật Bản (Eryobotrya japonica Lindl.), họ Hoa hồng (Rosaceae).Thành phần hoá học chính: Lá chứa nhiều saponin, acid hữu cơ.Công dụng: Dùng cho phụ nữ có thai bị nôn mửa nhiều, nấc, người bị suyễn, khó thở.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 8-12g dạng thuốc sắc.Chú ý: Nhân dân ta dùng lá cây Bồng bồng (Calotropis gigantea R. Br.), họ Thiên lý (Asclepiadaceae) với tên Nam tì bà diệp (xem 51. Bồng bồng).Tránh nhầm cây Nhót Nhật bản với cây Nhót (Elaeagus latifolia L., họ Nhót (Elaeagnaceae).TIỀN HỒ (Radix Peucedani)
Nguồn gốc: Rễ phơi hay sấy khô của cây Tiền hồ hoa trắng (Peucedanum praeruptorum Dunn.) hay cây Tiền hồ hoa tía (Peucedanum decursivumMaxim.), họ Cần (Apiaceae). Dược liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học: Rễ Tiền hồ chứa tinh dầu, coumarin.Công dụng: Chữa cảm sốt, nhức đầu, nôn mửa, ho có đờm, suyễn. Một số nước châu Âu chiết coumarin phối hợp làm thuốc chữa ung thư vú.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-10g dạng thuốc sắc, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.TIỂU HỒI (Fructus Foeniculi)
Nguồn gốc: là quả chín phơi khô của cây Tiểu hồi(Foeniculum vulgare Mill.), họ Cần (Apiaceae). Cây trồng ở các nước có khí hậu mát. Nước ta có trồng ở một số nơi, dược liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Quả Tiểu hồi chứa tinh dầu (3-12%), chủ yếu là anethol.Công dụng: Chữa đau bụng do lạnh, ăn không tiêu đầy bụng, nôn mửa, tiêu chảy. Chữa đau lưng do thận suy, chữa viêm cầu thận cấp, chữa thiểu năng sinh dục ở cả nam giới và phụ nữ.Làm gia vị, làm nguyên liệu điều chế anethol.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-8g. Dạng thuốc sắc hay thuốc bột, thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác.TOẢ DƯƠNGTên khác: Cây Cu chó, Củ gió đất, Hoa đất
Nguồn gốc: Vị thuốc là dò của cây Toả dương (Balanophora sp.), họ Gió đất (Balanophoraceae). Cây thường mọc và sống ký sinh trên những cây gỗ lớn, trong rừng sâu ẩm thấp, thường gặp ở Hoà Bình, Lào Cai.Thành phần hoá học: Chất màu (anthocyanosid), các ellagitannin và lignan glycosid.Công dụng: Làm thuốc bổ máu, kích thích ăn ngon miệng, hồi phục sức khoẻ, nhất là phụ nữ sau khi sinh đẻ.Cách dùng, liều lượng: Toả dương thu hoạch về đem sao cho khô dùng ngày10-20g dưới dạng thuốc sắc hay rượu thuốc, uống trước bữa ăn chính.TÔ MỘC (Lignum Sappan)
Nguồn gốc: Dược liệu là gỗ bỏ vỏ chẻ và phơi khô của cây Tô mộc (Caesalpinia sappan L.), họ Vang (Caesalpiniaceae). Cây mọc hoang và được trồng nhiều nơi trong nước ta.Thành phần hoá học chính: Gỗ Vang chứa chất mầu đa phenol (sappanin, brasilin), tanin, acid galic.Công dụng: Chữa lỵ ra máu, chảy máu đường ruột, tiêu chảy do nhiễm trùng đường ruột.Chữa đau bụng kinh, bế kinh, hậu sản ứ huyết (phối hợp với Hương phụ, Ngải cứu).Cách dùng, liều lượng: 6-12g một ngày, dạng thuốc sắc, hoàn, tán, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Phụ nữ mới có thai, phụ nữ đang hành kinh không được dung Tô mộc.TỎI (Bulbus Allii)
Nguồn gốc : Vị thuốc là dò của cây tỏi (Allium sativum L.), họ Hành (Liliaceae) Cây được trồng ở nhiều địa phương nước ta làm gia vị và làm thuốc.Thành phần hoá học: Tỏi chứa tinh dầu, thành phần chủ yếu của tinh dầu tỏi là các hợp chất có chứa disulfua, chất có hàm lượng cao là alixin.Công dụng: Chữa lỵ trực trùng, lỵ amip, chữa vết thương phần mềm có mủ, trị giun kim, chữa viêm phế quản mãn tính, ho gà, cao huyết áp.Cách dùng, liều lượng: Lấy tỏi giã nát ngâm với nước sôi để nguội với tỷ lệ 5% hoặc 10% lọc qua gạc, thụt để chữa lỵ (có thể đồng thời ngày uống 6g tỏi, chia làm 3 lần).Ngày uống 20-50 giọt cồn tỏi 1/5 với cồn 600 (chia làm 2-3 lần) chữa cao huyết áp.TRẮC BÁCH
Tên khoa học: Biota orientalis Endl. = Thuja orientalis L., họ Trắc bách (Cupressaceae).Bộ phận dùng: Cành lá non (Cacumen Biotae -Trắc bách diệp), nhân hạt chín phơi khô (Semen Biotae – Bá tử nhân).Thành phần hoá học chính:Cành lá Trắc bách chứa tinh dầu (có các thành phần fenchon, camphor, borneol), flavonoid, nhựa, vitamin C, acid hữu cơ.Nhân hạt chứa dầu béo, saponin.Công dụng: Cành lá chữa chảy máu cam, ho ra máu, thổ huyết, lỵ ra máu, rong kinh, băng huyết. Nhân hạt làm thuốc an thần, chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh, đại tiện bí, mồ hôi trộm. Chữa xơ cứng động mạch, chữa động kinh.TRẠCH TẢ (Rhizoma Alismatis)
Tên khác: Mã đề nước.Nguồn gốc: Vị thuốc là thân rễ đã cạo vỏ ngoài và phơi hay sấy khô của cây Trạch tả (Alisma plantago-aquatica L.), họ Trạch tả (Alismaceae). Cây mọc hoang và được trồng ở những nơi có nước tại một số vùng nước ta và một số nước khác.Thành phần hoá học chính: Trạch tả chứa tinh dầu, chất nhựa, protid, glucid.Công dụng: Thông tiểu tiện, chữa phù thũng, viêm thận, tiểu rắt, tiểu ra máu. Chữa lipid máu cao. Chữa cao huyết áp, chữa gan nhiễm mỡ, chóng mặt hoa mắt.Cách dùng, liều lượng: 4-12g một ngày dưới dạng thuốc sắc, thường dùng phối hợp các vị thuốc khác.TRÀM
Tên khoa học: Melaleuca leucadendra L. = Melaleuca cajuputiPowell, họ Sim (Myrtaceae).Bộ phận dùng: Ngọn mang lá phơi hay sấy khô (Ramulus cum folio Melaleucae).Thành phần hoá học chính: Lá Tràm chứa tinh dầu có thành phần chính là cineol.Công dụng: Lá tràm chữa ứ huyết, chữa suy nhược thần kinh, ít ngủ. Chữa cảm mạo, trừ phong thấp.Cách dùng, liều lượng: 10-20g lá tươi hoặc 5-10g lá khô dạng thuốc sắc.Chú ý: Không nhầm với cây Keo lá tràm, họ Đậu, hoặc nhầm với cây Tràm liễu, họ Sim.TRẦM HƯƠNG (Lignum Aquilariae resinatum)
Nguồn gốc: Gỗ có nhựa (đã “hoá trầm”) của cây Gió bầu Trầm hương, Trầm dó (Aquilaria agallocha Roxb.) hay (Aquilaria crassnaPierre) hoặc của cây Bạch mộc hương [Aquilaria sinensis (Lour.) Gilg], họ Trầm (Thymeleaceae).Thành phần hoá học chính: Nhựa thơm, tinh dầu (Agar-wood oil).Công dụng: Chữa nôn mửa, đau bụng, làm chất thơm trong một số nghi lễ tôn giáo.Cách dùng, liều lượng: Ngày 2-4g dạng thuốc sắc hay hoàn tán, thường phối hợp các vị thuốc khác.Chú ý: Nhựa tiết ra, tích tụ lâu năm từ những vết thương của cây Gió bầu gọi là Kỳ nam, là thương phẩm rất có giá trị.Trầm hương cũng có thể có nguồn gốc từ cây Xương rồng.TRẦU KHÔNGTên khác: Trầu cay, Trầu lương.
Tên khoa học: Piper betle L., họ Hồ tiêu (Piperaceae). Cây được trồng phổ biến ở các địa phương nước ta.Bộ phận dùng: Lá, rễ.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, nhựa, các vitamin.Công dụng: Lá Trầu không chữa cảm mạo, chữa vết thương phần mềm, chữa bỏng, mụn nhọt, viêm chân răng có mủ. chữa sai khớp, bong gân. Rễ Trầu không dùng kết hợp với rễ Cau để chữa tiểu rắt.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 8-10g dạng thuốc sắc, dùng ngoài đắp lá tươi giã nát hoặc ngâm lá với nước để rửa.TRI MẪU (Rhizoma Anemarrhenae)
Nguồn gốc: Dược liệu là thân rễ khô của cây Tri mẫu (Anemarrhena asphodeloides Bge.), họ Loa kèn trắng (Liliaceae). Vị thuốc phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Thân rễ Tri mẫu chứa nhiều saponin steroid.Công dụng: Chữa sốt cao, sốt khát nước, ra nhiều mồ hôi. Chữa viêm phổi, ho, ho khan. Chữa huyết áp cao, nhức đầu, hoa mắt. Chữa viêm tai giữa mạn tính, chữa loét miệng, viêm loét lợi. Chữa đại tiện táo, tiểu tiện vàng, ít, chữa tiểu đường. Chữa phụ nữ động thai.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay kết hợp với các vị thuốc khác.TRINH NỮ HOÀNG CUNG
Tên khoa học: Crinum latifolium L., họ Thuỷ tiên (Amaryllidaceae).Bộ phận dùng: Lá (Folium Crinii latifolii).Thành phần hoá học chính: Lá Trinh nữ hoàng cung chứa alcaloid, saponin, acid hữu cơ.Công dụng: Điều trị một số dạng ung thư như ung thư phổi, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú…Cách dùng, liều lượng: Ngày 20-50g dạng nước sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Không nhầm cây Trinh nữ hoàng cung với cây Náng hoa trắng (Crinum asiaticum L.).TRÔMTên khác: Chim chim rừng, Trôm hôi, Cây quả mõ.
Tên khoa học: Sterculia foetida L., họ Trôm (Sterculiaceae). Cây mọc hoang và cũng được trồng lấy bóng mát, làm thuốc.Bộ phận dùng: Hạt, vỏ cây và lá (Semen, Cortex et Folium Sterculiae Foetidae). Mủ (gôm) Trôm thu quanh năm, phơi khô, hạt thu hái ở những quả già vào tháng 12 và tháng 1, dùng chế dầu. Thu hái lá và vỏ quanh năm, thường dùng tươi.Thành phần hoá học chính: Hạt chứa dầu béo, giàu protein và tinh bột. Mủ (gôm) gồm các polysaccarit phân tử cao.Công dụng: Dầu hạt có tác dụng nhuận tràng, lợi trung tiện. Vỏ cây làm ra mồ hôi, lợi tiểu, chữa phong thấp, dùng ngoài chữa vết thương lở loét, bệnh về da.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-8g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.TRÚC ĐÀO
Tên khoa học: Nerium oleander L., họ Trúc đào (Apocynaceae). Cây trồng làm cảnh nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Lá.Thành phần hoá học chính: Lá Trúc đào chứa các glycosid tim, chủ yếu là neriolin.Công dụng: Chiết xuất neriolin sản xuất các chế phẩm thuốc trợ tim theo y học hiện đại.Cách dùng, liều lượng: Cồn neriolin 1/5000 uống ngày 2-4 lần, mỗi lần 10 giọt. Viên neriolin 0,1 và 0,2mg ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 viên 0,1mg. Cao lỏng mỗi lần uống 0,01g, 0,5g trong 24h. Bột lá mỗi lần uống 0,05g, 0,5g trong 24h.Chú ý: Các chế phẩm từ Trúc đào rất độc, chỉ được dùng theo sự hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa.TRƯ LINH (Polyporus umbellatus)
Nguồn gốc: Hạch nấm phơi hay sấy khô của nấm Trư linh (Polyporus umbellatus (Pers.) Fries), họ Nấm lỗ (Polyporaceae).Thành phần hoá học chính: PolysaccaridCông dụng: Trư linh làm thuốc lợi tiểu, chữa phù thũng.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g dạng thuốc sắc, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Bệnh nhân đau thận, phụ nữ có thai khi dùng Trư linh phải cẩn thận.TRỮ MA CĂN (Radix Boehmeriae)
Nguồn gốc: Trữ ma căn là rễ đã phơi khô của cây Gai (Boehmenia nivea (L.) Gaud. = Urtica nivea L.), họ Gai (Urticaceae). Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều địa phương nước ta.Thành phần hoá học chính: Trữ ma căn chứa tanin, acid clorogenic (là hợp chất giữa acid cafeic và acid quinic).Công dụng: Chữa đau bụng động thai, doạ sẩy, có thai ra huyết, chữa xuất huyết đường tiêu hoá. Làm thuốc lợi tiểu, đi tiểu ra máu. Chữa tiểu đục, lở loét, trĩ. Làm mụn nhọt chóng mưng mủ, chữa kiết lỵ, tiêu chảy.Cách dùng, liều lượng: Ngày 12-20g. Dạng thuốc sắc, bột hoặc viên. thường phối hợp với các vị thuốc khác, Dùng ngoài giã nát đắp hoặc đun nước để ngâm rửa.TỤC ĐOẠN (Radix Dipsaci)
Nguồn gốc: Vị thuốc là rễ phơi sấy khô của cây Tục đoạn (Dipsacus japonicus Miq.) và một số loài thuộc chi Dipsacus, họ Tục đoạn (Dipsacaceae). Cây mọc ở vùng núi cao miền Bắc nước ta và được trồng ở một số địa phương.Thành phần hoá học chính: Rễ Tục đoạn chứa alcaloid, saponin, hydratcarbon…Công dụng: Chữa đau lưng, mỏi gối, di tinh, bạch đới, gãy xương, đứt gân do chấn thương, phong thấp gây đau nhức, động thai đau bụng.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-12g dưới dạng thuốc sắc, hoàn, tán, rượu thuốc dùng riêng hay kết hợp với các vị thuốc khác.TỬ UYỂN (Radix Asteris)
Nguồn gốc: Vị thuốc là rễ phơi sấy khô của cây Tử uyển (Aster tataricus L.f.), họ Cúc (Asteraceae). Vị thuốc phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Rễ Tử uyển chứa Saponin, flavonoid.Công dụng: Chữa ho suyễn do cảm lạnh, ho lao ra máu, tiểu rắt, tiểu đỏ. Chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng nhiều. Chữa viêm phế quản cấp và mạn tính.Cách dùng, liều lượng: Ngày 4-10g, dùng phối hợp với các vị thuốc khác, dạng thuốc sắc, hoàn, tán.TỲ GIẢI (Rhizoma Dioscoreae)
Nguồn gốc: Dược liệu là thân rễ cây Tỳ giải (Dioscorea tokoro Makino hoặc Dioscorea spp.), họ Củ nâu (Dioscoreaceae). Cây mọc nhiều ở một số vùng núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Saponin steroid, tinh bột.Công dụng: Chữa phong thấp, đau nhức mình mẩy, lợi tiểu, chữa tiểu buốt.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 16-20g dạng thuốc sắc, thường dùng kết hợp với các vị thuốc khác.Ghi chú: Dược điển Việt Nam III có chuyên luận Miên tỳ giải (Rhizoma Dioscoreae septemlobae) và Phấn tỳ giải (Rhizoma Dioscoreae hypoglaucae) thu từ các loài khác nhau thuộc chi DioscoreaUY LINH TIÊN (Radix Clematidis)
Nguồn gốc: Vị thuốc là rễ phơi sấy khô của cây Uy linh tiên (Clematis chinensis Osbeck.), và một số loài thuộc chi Clematis khác (C. hexapentala Pall.,C. manshurica Rupr.), họ Hoàng liên (Ranunculaceae). Cây mọc hoang ở một số vùng núi nước ta. Dược liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học: Saponin, chất thơm.Công dụng: Trị phong thấp, chân tay tê bì, phù thũng.Cách dùng, liều lượng: Ngày 4-10g, dạng thuốc sắc.Ghi chú: – Một số địa phương nước ta dùng cây Clematis chinensis Osbeck. với tên Mộc thông (xem [10].- Nam uy linh tiên là rễ cây Bạch hạc hay Kiến cò (Rhinacanthus communis Nees.), họ Ô rô. Thành phần có chứa anthranoid, dùng chữa hắc lào, eczema, chốc lở ngoài da.VÀNG ĐẮNG
Tên khoa học: Coscinium usitatum Pierre. =Coscinium fenestratum (Gaertn.) Colebr., họ Tiết dê (Menispermaceae). Cây mọc hoang ở vùng núi Đông Nam bộ, Nam Trung bộ, Tây nguyên, ở một số nước nhiệt đới khác.Bộ phận dùng: Thân và rễ (Caulis et Radix Coscinii).Thành phần hoá học: Alcaloid, chủ yếu là berberin.Công dụng: Hạ nhiệt, chữa sốt rét, lỵ, tiêu chảy. Chiết xuất berberin làm thuốc chữa lỵ, tiêu chảy, đau mắt.Cách dùng, liều lượng: Ngày uống 4-6g, dạng thuốc sắc. Berberin chiết ra từ Vàng đắng thường được chuyển thành Berberin hydroclorid với dạng bào chế viên nén, dung dịch nhỏ mắt 0,05-0,01%.VIỄN CHÍ (Radix Polygalae)
Nguồn gốc: Dược liệu là rễ đã bỏ lõi gỗ và phơi hay sấy khô của cây Viễn chí Xiberi (Polygala sibirica L.) hoặc Viễn chí lá nhỏ (Polygala tenuifoliaWilld.), họ Viễn chí (Polygalaceae). Nước ta có một số loài Viễn chí mọc hoang ở các vùng núi cao, dược liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Viễn chí chứa saponin triterpenic, nhựa, dầu béo.Công dụng: Viễn chí dùng chữa ho có đờm, kém trí nhớ, suy nhược, lo âu, mất ngủ.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 2-12g dạng bột, thuốc sắc, cao lỏng.VỐI
Tên khoa học: Eugenia operculata Roxb., họ Sim (Myrtaceae). Cây mọc hoang và được trồng nhiều nơi làm trà uống, làm thuốc.Bộ phận dùng: Nụ hoa, vỏ thân, lá.Thành phần hoá học chính: Lá chứa tanin, Flavonoid, alcaloid, tinh dầu, các bộ phận khác chứa sterol, chất béo…VÔNG NEM
Tên khoa học: Erythrina variegata L., họ Đậu (Fabaceae). Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Lá (Folium Erithrina variegatae). Vỏ thân (Hải đồng bì – Cortex Erithrina variegatae).Thành phần hoá học chính: Alcaloid, tanin, flavonoid.Công dụng: An thần, chữa mất ngủ, viêm ruột, tiêu chảy, lỵ, phong thấp, còn dùng chữa viêm da lở nước (sắc đặc rửa).Cách dùng, liều lượng:VỎ QUÝT (TRẦN BÌ) (Pericarpium Citri reticulatae perenne)
Nguồn gốc: Dược liệu là Vỏ quả chín phơi khô, để lâu (trên 3 năm) của cây Quýt (Citrus reticulataBlanco), họ Cam (Rutaceae). Cây được trồng ở nhiều địa phương nước ta lấy quả ăn và làm thuốc.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, flavonoid, acid hữu cơ, vitamin…Công dụng: Chữa tiêu hoá kém, ngực bụng đầy, ợ hơi, nôn mửa, tiêu chảy, ho nhiều đờm.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-12g. Dạng thuốc sắc, thuốc bột, phối hợp trong các bài thuốc.Ghi chú: Hạt Quýt phơi khô (Semen Citri reticulatae) gọi là Quất hạch. Vỏ quả Quýt còn xanh (Pericarpium Citri reticulatae viride) gọi là Thanh bì. Vỏ ngoài quả Quýt gọi là Quất hồng, lá Quýt gọi là Quất diệp.VÔNG VANG
Tên khoa học: Abelmoschus moschatus (L.) Medic = Hibiscus abelmoschus L., họ Bông (Malvaceae). Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Bộ phận dùng: Hạt – Semen Abelmoschi, lá FoliumAbelmoschi, rễ – Radix Abelmoschi,Thành phần hoá học chính: Tinh dầu, chất nhầy.Công dụng: Hạt làm thuốc trấn kinh, chữa di tinh thông tiểu, chữa rắn cắn. Rễ dùng làm thuốc bổ thay Sâm bố chính.Cách dùng, liều lượng: Tinh dầu Vông vang thường được chiết bằng dung môi là một loại tinh dầu cao cấp.Ngày dùng 4-6g hạt dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột chữa di tinh, thông tiểu, trấn kinh.XẠ ĐEN
Nguồn gốc: Dược liệu là thân, cành của cây Xạ đen (Ehretia dentata Courch.), họ Vòi voi (Boraginaceae). Cây mọc hoang ở nhiều vùng núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Peptit, alcaloid.Công dụng: Dùng trong phạm vi nhân dân như là một cây thuốc chữa ung thư. Ở Việt nam chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về cây này. Gần đây vỏ thân cây được xác định có tác dụng hỗ trợ cho các bệnh nhân ung thư.Cách dùng, liều lượng: Ngày 15-20g dạng nước sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.XẠ HƯƠNG (Moschus)Tên khác: Nguyên thốn hương, Lạp tử.
Nguồn gốc: Dược liệu là túi xạ của con Hươu xạ (Moschus moschiferus L.), họ Hươu (Cervidae).Thành phần hoá học chính: Cholesterin, chất béo, hợp chất ceton – muscon.Công dụng: Chữa suy nhược thần kinh.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 0,1-0,15g dạng hoàn, tán. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.Chú ý: Phụ nữ có thai không được dùng.Người ta còn lấy Xạ hương từ loài Cầy hương (Viverricula malaccensis Gmelin), họ Cầy (Viverridae).XÁ XỊ
Tên khoa học: Cinnamomum parthenoxylon Meissn., họ Long não (Lauraceae). Cây mọc hoang ở nhiều vùng rừng trong nước ta.Bộ phận dùng: Thân cây, rễ, lá.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu có hàm lượng safrol rất cao (75-80%).Công dụng: Tinh dầu xoa bóp chữa đau do tê thấp, chữa đau bụng, viêm dạ dày, ruột, tiêu hoá kém, làm nguyên liệu bán tổng hợp thuốc, hương liệu, nước giải khát.XOAN CHỊU HẠN
- XƯƠNG RỒNG BÀTên khác: Xương rồng bà có gai, Vợt gai, Gai bàn chải, Tiên nhân chưởng.Tên khoa học: Opuntia dillenii (Ker Gawl.) Haw., họ Xương rồng (Cactaceae). Cây mọc hoang dại, rất phổ biến trên các bãi cát dọc bờ biển nước ta.Bộ phận dùng: Toàn cây và rễ (Herba et Radix Opuntiae), thu hái quanh năm.Thành phần hoá học chính: Chất nhầy, Flavonoid, phytosterol, các acid hữu cơ.Công dụng: Rễ và thân được dùng chữa đau tâm vị, chữa viêm loét dạ dày-hành tá tràng, chữa báng, lỵ, trĩ ra máu, chữa ho, đau họng, nhọt ở phổi, sưng vú, đinh sang, bỏng lửa và rắn cắn. Dùng ngoài chữa viêm tuyến mang tai, viêm tuyến vú…Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 4-8g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
XƯƠNG BỒ (Rhizoma Acori)
Nguồn gốc: Vị thuốc là thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây Thạch xương bồ (Acorus gramineus Soland.) và cây Thuỷ xương bồ (Acorus calamus L.) họ Ráy (Araceae). Cây mọc hoang trong rừng núi ẩm ướt, ven bờ suối, trên các triền đá.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (thành phần chủ yếu là asaron), tanin.Công dụng: Chữa khó thở, hồi hộp, co giật, ho, ngực bụng đầy tức, ăn không ngon, đau nhức do phong thấp.Cách dùng, liều lượng: Mỗi ngày 4-10g, dạng thuốc sắc hay hoàn, tán.XƯƠNG RỒNG ÔNG
Tên khoa học: Euphorbia antiquorum L., họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây mọc hoang và được trồng làm hàng rào ở nhiều địa phương nước ta.Bộ phận dùng: Thân, cành, nhựa.Thành phần hoá học: Friedelan (C30H52O), taraxerol (C30H50O), các acid hữu cơ…Công dụng: Chữa đau răng, chữa đầy bụng, tẩy tháo nước.Cách dùng, liều lượng: Cành xương rồng bỏ gai, nướng cho mềm, giã nát, thêm muối ngậm khi đau răng. Nhựa Xương rồng kết hợp với một số vị khác làm thành viên chữa báng.Chú ý: Cây có độc cần cẩn thận khi dùng.XUYÊN KHUNG (Rhizoma Ligustici wallichii)
Nguồn gốc: Dược liệu là thân rễ phơi hay sấy khô của cây Xuyên khung (Ligusticum wallichii Franch.), họ Cần (Apiaceae). Cây được trồng ở một số vùng núi cao của nước ta.Thành phần hoá học chính: Alcaloid, tinh dầuCông dụng: Chữa suy nhược cơ thể ở người cao tuổi có bệnh tim mạch, phụ nữ sau khi đẻ, tiền mãn kinh. Chữa viêm đại tràng. Chữa viêm tắc động mạch. Điều kinh, chữa nhức đầu, cảm mạo, phong thấp, ung nhọt.Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay ngâm rượu.XUYÊN SƠN GIÁP (Squama manitis)
Nguồn gốc: Vị thuốc là vẩy rửa sạch, phơi khô của con Tê tê (Manis pentadactyla L.), họ Tê tê (Manidae). Con Tê tê còn gọi là con Trút, sống ở các vùng núi nước ta.Thành phần hoá học chính: Gelatin, muối vô cơ.Công dụng: Vẩy Tê tê làm tăng tiết sữa, chữa sữa không thông, tắc tia sữa, thường dùng kết hợp vớiXUYÊN TÂM LIÊN (Herba Andrographis)
Tên khoa học: Andrographis paniculata (Burum.f.) Nees, họ Ô rô (Acanthaceae). Cây trồng ở nhiều địa phương nước ta.Bộ phận dùng: Phần trên mặt đất.Thành phần hoá học: Glycosid đắng (andrographiolide).Công dụng: Làm thuốc bổ đắng, chữa lỵ, viêm ruột, dạ dày, viêm amidan …Cách dùng, liều lượng:Ngày dùng 15-20g dưới dạng thuốc sắc.Xuyên tâm liên đã được sản xuất và sử dụng dưới dạng viên nén, có thời gian được sử dụng như là một loại thuốc chữa được nhiều bệnh khác nhau.XUYÊN TIÊU (Fructus Zanthoxyli)
Nguồn gốc: Vị thuốc là quả phơi khô của nhiều loại Xuyên tiêu (Zanthoxylum sp.), họ Cam (Rutaceae). Nước ta có một số loài thuộc chi Zanthoxylum, dược liệu phải nhập một phần từ Trung Quốc.Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (2-4%).Công dụng, cách dùng, liều lượng:Quả chữa đau bụng lạnh, ho, nôn mửa, tiêu chảy, nhức răng (sắc ngậm 30 phút rồi nhổ đi). Mỗi ngày dùng 4-12g, sắc uống hoặc tán thành bột.Rễ dùng chữa phong thấp gọi là Hoàng lực. Ngày uống 12- 20g dưới dạng thuốc sắc.Ý DĨ (Semen Coicis)
- 1
Tên khoa học: Azadirachta indica A, Juss. = Melia azadirachtaL., họ Xoan (Meliaceae) Cây được nhập và trồng nhiều ở vùng khô hạn tỉnh Bình Thuận (1), (2).
Bộ phận dùng: Vỏ thân, vỏ rễ, quả.
Thành phần hoá học chính: Các bộ phận của cây chứa saponin triterpenoid, vỏ thân có chất đắng, hạt chứa dầu béo.
Công dụng: Dầu hạt có tác dụng hợp đồng với thuốc tiểu đường. Thuốc đạn làm từ dầu hạt có tác dụng ngừa thai. Từ hạt và lá cây Xoan chịu hạn người ta chế thuốc bảo vệ thực vật và bảo quản ngũ cốc sau thu hoạch có hiệu quả tốt.
Chú ý: Cây Xoan (Melia azedarach L.) mọc hoang và trồng nhiều ở nước ta có vỏ làm thuốc tẩy giun kim và giun đũa, lá diệt côn trùng, sâu bọ. Cây Xoan đào (Melia toosendan Sieb. et Zucc) có quả làm thuốc với tên Xuyên luyện tử (Fructus Toosendan).
Nguồn gốc: Nhân hạt đã phơi hay sấy khô lấy từ quả chín của cây Ý dĩ (Coix lachryma-jobi L.), họ Lúa (Poaceae). Cây Ý dĩ mọc hoang, cũng được trồng nhiều nơi ở nước ta và nhiều nước khác.
Thành phần hoá học chính: Carbonhydrad (65%), chất béo, protid (13,7%), hai chất có hoạt tính chống ung thư: coixenolid và a- monolinolein.
Công dụng: Thuốc bồi dưỡng cơ thể, chữa tê thấp, phù thũng, viêm ruột, viêm phổi, tiêu chảy mãn tính, sỏi thận.
Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 10-30g. Dùng riêng hay phối hợp c
Nhận xét
Đăng nhận xét