-Tên gọi khác: Dây trái guồi
-Tên tiếng Anh: Edible willugbeia
-Tên khoa học: Willughbeia cochinchinensis (Pierre) K.
-Tên đồng nghĩa: Willughbeia edulis Roxb.
1-Phân loại khoa học (Scientific classification)
Giới (Kingdom): | Thực vật (Plantae) |
Ngành (Phylum): | Thực vật có hoa (Angiosperms) |
Nhánh (Division): | Hai lá mầm thực sự (Eudicots) |
Lớp (Class): | Asterids/Magnoliopsida |
Bộ (Order) | Long đởm (Gentianales) |
Họ (Family) | Trúc đào (Apocynaceae) |
Chi (Genus) | Dây gùi (Willughbeia) |
Loài (Species) | Willughbeia cochinchinensis |
2-Nguồn gốc và phân bố
Chi Dây gùi (Willughbeia) có nguồn gốc ở Đông Dương với khoảng 54 loài bao gồm những thực vật có dây leo hóa gổ sống hoang dại trong rừng. Trong đó có khoảng 20 loài được định danh và vài loài có quả mộng ăn dược với vị chua ngọt.
Dây gùi (Willughbeia cochinchinensis) là loài dây leo thân hóa gổ sống trong rừng, là loài cây có quả ăn được quan trọng trọng nhất trong Chi Dây gùi. Đây là loài cây đặc hữu của Campuchia và Việt Nam (ở vùng Đông Nam Bộ).
Ở Việt Nam trước đây dây gùi sống tự nhiên rất phổ biến trong các khu rừng nguyên sinh ở Miền Đông Nam Bộ như ở Bến Cát, Lộc Ninh, Chiến khu D…nhưng hiện nay loài dây leo có quả quý này gần như sắp bị tiệt chủng do rừng nguyên sinh đã bị khai phá.
Ở Campuchia trái gùi có tên là Kuy, là loại quả còn phổ biến trong các khu rừng nguyên sinh và đang được bảo tồn và khai thác để phục vụ khách du lịch.
Ngoài ra dây gùi còn gặp ở Thái Lan, Myama và ở Ấn Độ.
3-Mô tả
-Thân: Cây gỗ leo. Thân có mấu lồi, bấm ra nhựa mủ trắng.
- Lá: Lá mọc đối, chóp nhọn; gân lá nổi rõ ở mặt trên.
- Hoa: Hoa tập hợp ở nách lá, màu trắng.
- Quả: Quả to bằng nắm tay, khi chín màu vàng, vị chua ngọt, ăn được.
Cây ra hoa tháng 1-3, mùa quả tháng 3-5.
4-Công dụng
a-Trái gùi là loại quả đặc sản, dùng để ăn chơi
Trái gùi chưa chín có nhựa và vị chát, đắng, không ăn được. Trái gùi chín có kích thước gần bằng quả trứng gà, có vỏ màu vàng, mỏng, khi bẻ ra phần ruột bên trong có những múi như múi mít. Trái gùi chín có vị chua ngọt và mùi thơm đặc biệt, được dùng làm quà cho những người ở thành phố và miền đồng bằng về thăm miền đông Nam Bộ.
Trong những năm trước giải phóng Miền Nam, có bài ca vọng cổ nổi tiếng với tựa đề “Chị Nhành” hay “Trái gùi Bến Cát” kể về một người phụ nữ ở miền xuôi đi buôn bán đường xa trên chuyến xe lửa Sài Gòn-Lộc Ninh, khi trở về chị mua những xâu trái gùi làm quà cho con chị. Rủi thay chị bị xe lửa cán chết, trên tay vẩn còn nắm những sâu trái gùi và những đứa con nhỏ của chị chờ tiếng còi xe lửa để ra ga đón mẹ để nhận lấy trái gùi…bài hát nêu lên câu chuyện tình mẫu tử rất xúc động. (Mời bạn đọc xem Video ở cuối bài).
b-Các bộ phận dây gùi được dùng làm thuốc
Nơi sống và thu hái: Loài cây đặc hữu của miền Nam Việt Nam và Campuchia, mọc hoang ở rừng rậm hay rừng thưa. Thu hái dây, rễ và mủ cây quanh năm.
Bộ phận dùng: Dây hoặc rễ, mủ cây - Caulis seu Radix et Latex Willughbeiae Cochinchinensis.
Tính vị, tác dụng: Lương y Nguyễn An Cư cho biết: Guồi có vị hơi đắng, tính mát, không độc, có tác dụng lợi thuỷ, thông nhũ, sinh tân, chỉ khát, giáng hoả, thanh nhiệt, tiêu ban, chỉ ẩu, trừ thũng, tán ung.
Mủ cây tạo thành một chất gôm màu đỏ rất dính, rất cứng, khi khô không trong, dễ vỡ.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Campuchia, thân cây được sử dụng làm các chế phẩm thuốc trị lỵ và bệnh về gan và bệnh ghẻ cóc. Có khi người ta ngâm rượu làm thuốc cho phụ nữ mới sinh để uống cho khoẻ.
Lương y Nguyễn An Cư còn cho biết là đàn bà huyết bại tê đau, bạch trọc, bạch đới, băng huyết, rong huyết dùng nó rất hay. Mủ cây thường dùng để làm lành mụn nhọt. Người ta cũng dùng nó bôi chữa ghẻ và sâu răng.
Nhận xét
Đăng nhận xét