Những chùm quả sung tròn trĩnh không chỉ có mặt trên các mâm ngũ quả ngày tết với ý nghĩa “sung túc” mà còn gắn bó với con người trong đời sống hàng ngày, từ đời sống vật chất đến tinh thần, đến lời ăn tiếng nói.
Cây sung qua lời ăn tiếng nói hàng ngày
Dân gian ta có thành ngữ “ăn quả vả, trả quả sung” để ám chỉ những người tánh tình hẹp hòi vì quả vả và sung nhìn tương tự nhau, đều ăn được nhưng quả vả to hơn. Hay như để cười cái tánh lười biếng, ỷ lại, xốc nổi, dân gian không chỉ ví như “há miệng chờ sung” mà còn đả kích:
“Ăn sung ngồi gốc cây sung
Ăn rồi lại ném tứ tung ngũ hoành” (1)
Và, cả cái lá sung non chát lè cũng đi vào ca dao qua lời tâm sự của người phụ nữ muốn chống lại quan niệm “trai tam thê tứ thiếp, gái chính chuyên một chồng“:
“Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng” (2)
Không chỉ thế, cây sung trong chậu, bên hè, dưới bến sông, giữa đồng vắng… còn là cây thuốc dân gian rất thông dụng.
Đặc điểm
Sung (tên khoa học: Ficus racemosa, họ Dâu tằm: Moraceae) (3) là cây thân gỗ lớn, sinh trưởng nhanh, dễ tạo dáng, mọc hoang dại hoặc được trồng để làm cây cảnh và lấy quả trên khắp nước ta. Cây còn có các tên gọi khác như ưu đàm thụ, tụ quả dong…
Lá sung thuôn dài hình mũi mác, mọc so le, các phiến lá thường có các nốt u sần nổi cộm lên do ký sinh. Cây sung cho ra rất nhiều chùm quả mọc từ thân và cành. Quả sung hình trứng, nhọn dần về cuống (do đế hoa phát triển thành túi bao lấy các hoa nhỏ bên trong), có lớp lông mịn.
Trong ẩm thực, lá sung non (vị chát) có thể dùng như rau chấm ăn kèm. Quả sung sống màu xanh, vị chát có thể dùng kho với thịt cá hoặc muối dưa, gói nem. Quả sung chín màu ánh đỏ hoặc đỏ nâu, đỏ tím, có vị ngọt, dùng để ăn tươi.
Tính vị, công dụng của quả sung
Quả sung vị ngọt chát, tính mát, có công dụng bổ máu, thông huyết, lợi tiểu, chỉ thống, tiêu đàm, tiêu thũng, tiêu viêm, sát trùng. Bên cạnh đó, phụ nữ bị thiếu sữa sau sinh có thể dùng quả sung và quả mít non (hoặc dái mít) thái nhỏ rồi nấu cháo gạo nếp để ăn khoảng 3 lần mỗi tuần (4).
Công dụng của nhựa, vỏ cây và lá sung
Nhựa: Nhựa sung (được trích trực tiếp từ cây tươi) dùng bôi ngoài da và để khô tự nhiên giúp điều trị sang độc, chốc lở, đinh nhọt, ghẻ ngứa và đặc biệt là giời leo (5).
Vỏ cây và lá: Vỏ cây sung (đẽo lớp vỏ ngoài, rửa sạch, thái mỏng, khơi khô) cũng như cành lá sung (lá có u sần càng tốt) được dùng làm thuốc bổ, điều trị phong thấp, sốt rét, ít sữa sau sinh (vỏ cây còn dùng điều trị thiếu máu). Liều lượng: sắc uống từ 10 – 20 g (4).
Ngoài ra, còn có thể kể đến các bài thuốc sau đây:
- Bổ huyết, điều kinh (đau bụng khi hành kinh, khí huyết kém): củ cỏ cú (tứ chế), hà thủ ô, lá sung già, đậu đen (mỗi loại 20 g), ngải diệp, ích mẫu (mỗi loại 15 g), rễ cây gai (10 g), nấu trong 600 ml đến khi còn 200 ml, mỗi thang dùng 2 nước, mỗi ngày một thang (4).
- Bỏng da: lấy lá sung có tật (các u sần) phơi khô, tán bột, trộn với mỡ lợn và bôi lên da bỏng (5).
Một số nghiên cứu về cây sung
- Theo Tạp chí về các loại thuốc truyền thống, bổ sung và thay thế châu Phi (African journal of traditional, complementary and alternative medicines), kết quả nghiên cứu cho thấy chiết xuất etanolic từ vỏ cây sung có tác dụng điều trị tiểu đường và hạ đường huyết mạnh (6).
- Theo Tạp chí Khoa học đời sống (Life Sciences), chiết xuất từ cây sung có khả năng chống o xy hóa và ức chế quá trình gây ung thư thận do Fe-NTA (Ferric nitrilotriacetate, chất gây ung thư thận nổi tiếng) (7).
- Theo Tạp chí Nghiên cứu liệu pháp thực vật (Phytotherapy research), chiết xuất từ lá sung còn có tác dụng bảo vệ gan đối với tổn thương gan do Carbon tetrachloride (8).
Lưu ý
Không ăn quá nhiều quả sung cũng như lạm dụng các bài thuốc từ sung để tránh các tác dụng phụ như xuất huyết, tụt đường huyết (đối với người có lượng đường huyết thấp)…
Nhận xét
Đăng nhận xét