- Rau sam (Portulaca oleracea): Mọc hoang dại trong các bãi cỏ, công viên, vườn, sân, bờ ruộng. Rau sam có vị chua hơi đắng, tính mát, chứa nhiều glycosit, saponin, chất nhầy, axít hữu cơ, muối kali và nhiều vitamin như A, B1, B2, C và PP. Rau sam có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lọc máu, nhuận trường, tẩy giun, an thần nhẹ. Được dùng để trị viêm ruột cấp, lỵ, ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun kim (phối hợp thêm cỏ sữa), đi cầu ra máu (thêm cỏ mực, rau má), ho gà, ho lâu ngày, niệu đạo xuất huyết như tiểu ra máu, sỏi niệu.Mỗi ngày 15-30 g lá khô hoặc 50-100 g lá tươi sắc lấy nước uống. Có thể ăn như rau sống, xào chín hoặc làm rau ghém chấm mắm kho ăn cho mát. Dùng ngoài giã đắp chữa mụn nhọt, đinh râu.
- Rau mương (Ludwigia hyssopifolia): Còn gọi là cỏ cuốn chiếu, mọc nhiều ở các vùng ẩm ướt, bờ đê, gò ruộng, rất nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nông dân thường hái ngọn non nấu canh hoặc làm rau ăn, theo y học cổ truyền, rau mương có vị ngọt nhạt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trừ thũng, cầm máu, tiêu sưng.Dùng làm thuốc cầm tiêu chảy, chữa lỵ, cảm mạo có kèm sốt, viêm hầu họng, miệng lưỡi, mụn lở sưng đau, ngày 10-20 g lá khô sắc uống, hoặc 100-200 g lá tươi nấu canh ăn. Nếu viêm miệng lưỡi thì sắc lấy nước súc miệng ngày 2-3 lần.
- Rau đắng đất (Glinus oppositifolius): Còn gọi là rau đắng lá vòng, mọc hoang trên các vùng đất khô cạnh bãi sông, ven biển, nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Có thể thu hái quanh năm, nên hái lúc cây chưa ra hoa, rửa sạch, ăn sống hoặc làm rau ghém ăn với món cháo cá lóc. Rau đắng đất có vị đắng, tính mát, dùng trị kinh phong, nhuận gan, thông tiểu. Được dùng để chữa các bệnh về gan như viêm gan vàng da, nổi mề đay, sốt nóng trong người (thêm dây cứt quạ đồng lượng, sắc uống). Mỗi ngày 50-100 g nấu canh ăn hoặc sắc lấy nước uống.
- Rau dừa nước (Ludwigia adscendens): Còn gọi là rau dừa, mọc hoang nhiều ở các ruộng nước, ao đầm, mương rạch, thân mềm xốp có nhiều phao xốp màu trắng giúp cho thân cây nổi trên mặt nước. Thành phần rau dừa nước chứa nhiều protid, glucid, chất xơ, khoáng tố như canxi, photpho, sắt, nhiều carotene, vitamin C, flavonoit và tanin. Nhờ vậy rau dừa nước có giá trị dinh dưỡng khá cao.Dùng làm rau ghém ăn mắm kho hoặc luộc nấu canh. Từ lâu người ta dùng rau dừa để chữa bệnh đường tiết niệu như viêm bàng quang, viêm cầu thận cấp, tiểu buốt, tiểu gắt, tiểu ra máu và đặc biệt là chứng tiểu ra dưỡng trấp (tiểu đục); mỗi ngày dùng 30-40 g khô, phối hợp thêm rễ cây đa 20 g, tì giải 15 g, sắc lấy nước uống trong 5-7 ngày. Rau dừa có vị ngọt nhạt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, lương huyết, còn dùng chữa cảm sốt, đau bụng, dùng ngoài giã đắp còn trị rắn cắn, mụn nhọt, sưng lở.
- Rau dền canh (Amaranthus tricolor): Còn gọi là rau dền tía, rau dền cơm, rau dền gai và mọc hoang hoặc được trồng nhiều để làm rau ăn, luộc, xào hoặc nấu canh. Trong lá rau dền chứa hàm lượng vitamin A rất cao, ngoài ra còn có vitamin B, C, PP, nhiều protid đặc biệt là lysin với hàm lượng cao hơn cả bắp, lúa mì và đậu tương.Rau dền có vị ngọt, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, sát trùng, giải độc. Mỗi ngày, 200-500 g rau dền luộc ăn và uống cả nước hoặc đem nấu canh ăn giúp thông tiểu, nhuận trường, chữa táo bón, kiết lỵ, các trường hợp dị ứng, mẩn ngứa hoặc do côn trùng đốt. Dùng luôn cả hoa và hạt rau dền có tác dụng trừ phong nhiệt, chữa mắt mờ, mắt có màng mộng (phối hợp thêm hạt thảo quyết minh cùng lượng, sắc uống).
- Rau càng cua (Peperomia peliucida, họ hồ tiêu): Đây là loại cỏ mọng nước, mọc nhiều ở các chân tường ẩm, vùng đất ruộng ẩm ướt. Hoạt chất chiết từ rau càng cua có tác dụng chống viêm, giảm đau nhức, kháng khuẩn rộng trên các chủng S. Aureus, B. Subtilis, P. Aeriginosa và E. Coli, dịch chiết trong clorofoc có tác dụng kháng nấm T. Mentagrophytes.Ở nhiều nước trên thế giới người ta dùng toàn cây rau càng cua làm thuốc chữa đau bụng, áp xe, mụn, phỏng nước, gout, rối loạn chức năng thận, thấp khớp. Người dân Bolivia và dân Brazil dùng toàn cây chữa các chứng xuất huyết, sốt cao, làm lành vết thương, chữa ho, hạ cholesterol huyết và trị bệnh tiểu nhiều protein. Mỗi ngày dùng tươi từ 100-200 g hoặc sắc lấy dịch chiết cô đặc chia nhiều lần uống trong ngày.
- Rau tàu bay (danh pháp hai phần: Gynura crepidioides, tên đồng nghĩa Crassocephalum crepidioides (Benth.) S.Moore) là một loài cây một năm, thân thảo thuộc họ Cúc (Asteraceae), cây mọc hoang dại ở những nơi thoáng, len lỏi trong các cánh rừng hoặc bìa rừng, ven suối ở các vùng núi rừng nhiệt đới...Thân thảo mập, có rãnh mọc đứng, cao khoảng 0,4 m đến 0,5 m nhưng cũng có thể tới 1 m. Có rễ cái màu trắng hoặc nâu. Lá to, mỏng, hình trứng dài, mép có răng cưa to hoặc có khía, có mùi thơm. Hoa lưỡng tính, tự hình đầu, hợp thành ngù, màu hồng nhạt đến đỏ và đỏ nâu, có mào lông mịn, trắng, mềm. Quả bé có mào lông.Là loài cây một năm, thích hợp với đất ẩm, phân bố rộng. Có thể mọc ở những nơi có độ cao tới 2.500 m, có thể tái tạo bằng hạtnảy mầm hoặc bằng thân cây. Hoa nở từ tháng 9 đến tháng 2, ra quả từ tháng 10 đến tháng 3. Đầu các nhụy hoa lúc khô biến thành các túm bông nhẹ, bay theo gió, đem theo nhụy và hạt cây đi đến những nơi thuận lợi để sinh sôi.Rau tàu bay còn được biết phổ biến nhờ trong chiến tranh Việt Nam, ở những vùng rừng núi nó là một trong những loài cây rừng chủ lực được chọn để thay rau xanh.Tuy có tên là rau nhưng thực tế nó chỉ là một loài cỏ dại, có thể ăn được như rau nhưng do có nguồn gốc hoang dại, còn nhiều độc tính nên không được sử dụng nhiều hoặc trồng làm rau. Ở Việt Nam, đôi khi nó được sử dụng làm thực phẩm thay thế rau xanh nhưng rất hạn chế vì có mùi hắc rất khó chịu kể cả khi đã luộc chín.Đọt non của cây có thể luộc, nấu canh, hoặc làm nộm trộn với hoa chuối... Trong thời gian chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh Việt Nam, nó là món ăn thường xuyên của du kích,bộ đội khi hoạt động ở những vùng rừng núi do không có điều kiện để trồng rau xanh thường xuyên để tránh bị lộ nơi đóng quân hoặc những lúc hết lương thực.Trong y học cổ truyền còn sử dụng rau tàu bay làm dược liệu.
- RAU SẮNGMelientha suavis PierreHọ: Rau sắng OpilliaceaeBộ: Đàn hương SantalalesMô tả:Cây gỗ nhỏ, cao 4 - 8 m, nhẵn ở tất cả các phần. Vỏ cây dày, màu xám nhạt và hoá bẩn, mềm, nứt dọc thành những răng sâu. Gỗ trắng cành và lá non màu lục, rũ xuống, mềm, dễ nứt, có vị ngọt cuả mì chính. Lá có phiến hình mác, nhẵn bóng, dày, dài 7 - 12cm, rộng 3-6 cm; gốc và đầu lá tù, gân bậc hai có 4 - 5 đôi không rõ ở hai mặt, mép lá nguyên; cuống lá dài 1 - 2mm. Cụm hoa chùy hoặc bông kép, dài 13cm, mọc dày đặc trên thân và cành già. Hoa hình cầu, cao 2mm, tạp tính, rất thơm. Dài rất nhỏ, hơi nạc, không có thùy rõ ràng.Tràng gồm 4 - 5 phiến hình mác, hợp với nữa dưới. Nhị 4 - 5, mọc đối với thùy tràng và ngắn hơn. Chỉ nhị rất ngắn, đính trên sống tràng. Bao phân hình bầu dục, lõm ở đầu, dài 1,5mm. Đĩa cuả hoa đực gồm 4 - 5 tuyến, mọc xen với cánh hoa, nạc, hình nêm. Nhụy lép hình trứng, không có núm rõ ràng. Ở hoa cái, tuyến đĩa hình trứng ngược, dẹt, ngắn hơn bầu. Bầu 1 ô, gân hình cầu, nhỏ, không có cuống, đường kính 2mm; vòi không có núm, hình khôi nạc hơi chia thùy, quả hạch, hóa gỗ, hình thuôn hay hình trứng, dài 2,5cm, đường 1,3-1,5cm, mùa lục nhạt, nhẵn, vị ngọt, hơi ngứa. Hạt 1 có xơ trắng.Sinh học:Mùa hoa nở tháng 3-4, mùa quả chín tháng 6-8. Tái sinh mạnh bằng hạt và chồi. Cây mọc nhanh.Nơi sống và sinh thái:Mọc rải rác trong rừng thưa ở thung lũng, chân vài đất, núi đá vôi, ven suối.Phân bố:Việt Nam: Lài Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn (Hữu Lũng), Quảng Ninh, Bắc Thái, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hà Tây (Mỹ Đức: Chùa Hương), Ninh Bình (Cúc Phương), Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam-Đà Nẵng, Kontum, Gia Lai, Lâm Đồng, Sông Bé, Bà Rịa Vũng Tàu (núi Đinh Gân Bà Rịa).Thế giới: Thái Lan, Lào, Campuchia.Giá trị:Nguồn gen độc đáo. Lá một trong hai loài duy nhất. Của chi Melientha có sự phân bố không rộng ở Đông Dương và Thái Lan. Loài rau rừng có giá trị vì cành, lá non, hoa và quả non dùng nấu canh ăn ngọt như có vị mì chính.Tình trạng:Biết không chính xâc. Loài phân bố rộng nhưng có số lượng cá thể không nhlều, lại bị chết quá mức và môi sinh bị tàn phá mạnh .Đề nghị biện pháp bảo vệ:Khi lấy lá và hoa và quả làm rau không được chặt cành hoặc cả cây. Trồng thêm và bảo vệ môi trường mà loài sinh sống.
- Cải xoong (danh pháp hai phần: Nasturtium officinale hoặc Nasturtium microphyllum) là một loại thực vật thủy sinh hay bán thủy sinh, sống lâu năm và lớn nhanh, có nguồn gốc từ châu Âu tới Trung Á và là một trong số những loại rau ăn được con người dùng từ rất lâu. Các loài thực vật này là thành viên của họ Cải (Brassicaceae), về mặt thực vật học là có họ hàng với rau tần vàmù tạc — tất cả chúng đều đáng chú ý vì có mùi vị hăng và cay.Thân của cải xoong trôi nổi trên mặt nước và lá của nó là loại lá phức hình lông chim. Cải xoong sản sinh ra các hoa nhỏ màu trắng và xanh lục, mọc thành cụm.Cải xoong chứa một lượng đáng kể sắt, canxi và axít folic cùng với các vitamin A và C. Tại một số khu vực, cải xoong được coi làcỏ dại nhưng tại những khu vực khác thì nó lại được coi là rau ăn hay cây thuốc. Ở những khu vực mà cải xoong mọc có nhiều chất thải động vật thì nó có thể là nơi trú ẩn cho các loại động vật ký sinh như sán lá gan cừu Fasciola hepatica.Người ta cũng gán một số lợi ích cho việc ăn cải xoong, chẳng hạn việc nó có tác dụng như một chất kích thích nhẹ, một nguồn hóa chất thực vật, có tác dụng chống ôxi hóa, lợi tiểu, long đờm và trợ giúp tiêu hóa.Nasturtium nasturtium-aquaticum và Sisymbrium nasturtium-aquaticum là các từ đồng nghĩa của N. officinale. Nasturtium officinalethứ microphyllum (Boenn. cũ Reich.) Thellung là từ đồng nghĩa của N. microphyllum (ITIS, 2004). Các loài này cũng được liệt kê trong một số nguồn là thuộc về chi Rorippa, mặc dù các chứng cứ phân tử chỉ ra rằng các loài thực vật thủy sinh với thân rỗng có quan hệ họ hàng gần gũi với Cardamine hơn là so với Rorippa (Al-Shehbaz & Price, 1998). Lưu ý là mặc dù tên khoa học của chi cải xoong là Nasturtium, nhưng chi này không có họ hàng gì với các loài sen cạn trong chi Tropaeolum (họ Tropaeolaceae) mà trong tiếng Anh thông thường người ta cũng gọi là "Nasturtium".
- Tầm bóp, còn gọi là lồng đèn hay thù lù canh, có nơi còn gọi là bôm bốp, tên khoa học là Physalis angulata, thuộc họ Cà (Solanaceae). Loài này được Carl Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.[1]
Tầm bóp ở Việt Nam có rất nhiều, tuy nhiên ít được sử dụng dù có một số dược tính tốt. Chúng có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ, sau trở thành liên nhiệt đới. Thấy mọc hoang khắp nơi, ở trên các bờ ruộng, bãi cỏ, đất hoang hay ven đường làng quê. Cũng còn thấy ở ven rừng từ vùng thấp đến vùng có độ cao 1.500m so với mặt nước biển. Dược liệu sử dụng tươi hay phơi khô dùng dần.Là loại cây thảo mọc hoang quanh năm, cao 50 – 90 cm, phân nhiều cành. Thân cây có góc, thường rủ xuống. Lá mọc so le, hình bầu dục, chia thuỳ hay không, dài 30 - 35mm, rộng 20 - 40mm; cuống lá dài từ 15 - 30mm. Hoa mọc đơn độc, có cuống mảnh, dài khoảng 1 cm. Đài hình chuông, có lông, chia ra từ phía giữa thành 5 thuỳ, tràng hoa màu vàng tươi hay màu trắng nhạt, có khi điểm những chấm màu tím ở gốc, chia 5 thuỳ. Quả mọng tròn, nhẵn, lúc non màu xanh, khi chín màu đỏ, có đài cùng lớn với quả, dài 3 – 4 cm, rộng 2 cm, bao trùm lên ở ngoài như cái túi, hạt nhiều hình thận. Khi bóp quả vỡ phát ra tiếng bộp. Cây ra hoa kết quả quanh năm. Bộ phận sử dụng làm thuốc là toàn cây có tên dược là Herba physalis Angulatae.
Năng Lượng của 100g quả tầm bóp | |
---|---|
Năng lượng | 205kJ |
Ca-lo | 49kcal |
Protein | 1,5g |
Cacbohydrat | 11g |
Trong đó lượng đường | 3,9g |
Chất béo | 0,5g |
Chất xơ | 0,5g |
Protein | 0,9g |
Lượng nước | 81% |
Các khoáng chất | |
Vitamin C | 28 mg |
Lưu huỳnh | 6 mg |
Kẽm | 0,1 mg |
Sắt | 1,3 mg |
Natri | 0,0005g |
Magiê | 8 mg |
Canxi | 12 mg |
Phốt-pho | 39 mg |
Clo | 2 mg |
Chi tiết: trong 100g quả Tầm bóp có 80% là cacbohydrat, 12% là protein, 8% là chất béo.
Nhận xét
Đăng nhận xét