Chuyển đến nội dung chính

CÂY BẦN CHUA - Sonneratia caseolaris (L.) Engl.

CÂY BẦN CHUA

Cây bần ven sông.
Ảnh: DUY KHÔI-Báo Cần Thơ


Hoa cây bần chua


Quả bần chua


Các bộ phận của cây bần chua
-Tên gọi khác: Bần sẻ, Bần dĩa (Nam Bộ), Thủy liễu.
-Tên tiếng Anh: Apple Mangrove, Crabapple Mangrove.
-Tên khoa học: Sonneratia caseolaris (L.) Engl. 
-Tên đồng nghĩa: Sonneratia rubra OkenSonneratia acida L.F, Rhizophora caseolaris L.
-Các loài tương cận:
-Sonneratia alba Sm. (Bần trắng).
-Sonneratia ovata Backer: (Bần ổi/Bần trứng).

Phân loại khoa học


Giới (regnum):
Thực vật (Plantae)
Ngành (Division):
Thực vật có hoa (Angiospermae)
Lớp (Class):
Hai lá mầm thực sự (Eudicots)
Phân lớp(Subclass):
Phân lớp Hoa hồng (tạm) (Rosids)
Bộ (ordo):
Sim (Myrtales).
Họ (familia):
Bần (Sonneratiaceae)/Bằng lăng (Lythraceae)
Chi (genus):
Bần (Sonneratia L.f.)
Loài (species):
Bần chua: Sonneratia caseolaris 

Chi Bần (danh pháp khoa học: Sonneratia) là một Chi của thực vật có hoa trong họ Bằng lăng (Lythraceae). Trước đây Sonneratia được đặt trong họ Bần(Sonneratiaceae), bao gồm cả Sonneratia  chi Phay (Duabanga), nhưng hiện nay hai chi này được đặt trong các phân họ chứa chính chúng của họ Bằng lăng(Lythraceae). Tên khoa học của chi này còn là Blatti do James Edward Smith đặt, nhưng Sonneratia có độ ưu tiên cao hơn. Tên gọi chung của chúng trong tiếng Việt làbần. Chúng là các loài cây thân gỗ sinh sống trong các cánh rừng tràm đước ven biển.
Chi Sonneratia chứa khoảng 14-16 loài, trong đó loài quan trọng là cây Bần chua (Sonneratia caseolaris (L.) Engl.) và cây Bần ổi (Sonneratia ovata).

Phân bố

Cây bần là loài cây rừng ngập mặn nhiệt đới, có nguyên sản ở vùng Nam Á và Đông Nam Á, được phát tán rộng khắp Châu Á , Châu Phi và Châu Đại dương.
Hiện nay các nước có nhiều cây bần mọc hoang và được trồng như: Châu Phi, Sri- Lanka, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Campuchia, Philippin, Indonesia, Timor , Đảo Hải Nam (Trung Quôc), Đông Bắc Australia và một số nước ở Châu Đại dương như Niughnia, New Guinea, Solomon Islands, New Hebrides…(Little, 1983).
Ở Việt Nam cây bần mọc hoang và được trồng ở rừng ngập mặn ven biển từ Bắc vào Nam nơi có nhiều bùn và bải bồi. Ở Miền Bắc cây bần mọc thành rừng gần như thuần loại ven bờ biển và vùng cửa sông như ở Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh. Ở Miền Nam cây bần là thành phần chính yếu của các rừng ngập mặn tự nhiên ven biển và chúng mọc dày đặt ven sông rạch ở ĐBSCL.
Loài cây này ưa sáng và mọc được nơi có nước mặn hay nước lợ ít nhất là một giai trong năm. Sự phong phú của quần thụ này tùy theo mức nước lợ và chế độ thủy triều.
Bần là cây tiên phong để phát triển rừng ngập măn ven biển và các bải bồi ven sông.
Cây bần phát triển kém ở những vùng có nước ngọt quanh năm so với vùng nước lợ và nước măn.

Mô tả

-Thân: Bần chua thuộc loài thân gổ đại mộc, có nhiều cành. Cây gỗ cao 10-15m, có khi cao tới25m.  Cành non màu đỏ, 4 cạnh, có đốt phình to. Gổ xốp, bở, vỏ thân chứa nhiều tanin.
-Rể: Rể gốc to, khỏe, mọc sâu trong đất bùn. Từ rể mọc ra nhiều rễ thở (bất hay Cạt bần (Nam Bộ) thành từng khóm quanh gốc.
-Lá: Lá đơn, mọc đối, dày, giòn, hơi mọng nước, hình bầu dục hoặc trái xoan ngược hay trái xoan thuôn, thon hẹp thành cuống ở góc, cụt hay tròn ở chóp, dai, dài 5-10cm, rộng 35-45mm. Cuống và một phần gân chính màu đỏ, gân giữa nổi rõ ở cả 2 mặt, cuống dài 0,5 - 1,5cm.
-Hoa: Cụm hoa ở đầu cành, có 2-3 hoa, rộng 5cm, có cuống hoa ngắn.
 Đài hợp ở gốc, có 6 thùy dày và dai, mặt ngoài màu lục, mặt trong màu tím hồng. Cánh tràng 6, màu trắng đục, hình dải, thuôn về hai đầu. Nhị có chỉ hình sợi, bao phấn hình thận. Bầu hình cầu dẹt, vòi dài, đầu hơi tròn.
-Quả: Quả mọng hơi nạc, khi còn non cứng, dòn, khi chín quả mọng, thịt quả mềm, ruột chứa nhiều hạt. Quả có đường kính 5-10 cm, cao 2-3 cm, gốc có thùy đài xòe ra.
-Hạt: Hạt nhiều, dẹt.
Khi chín quả rụng và trôi nổi theo nước thủy triều, hạt sống lâu và phát tán mạnh trên các bải bồi. Muốn trồng cây bần không cần gieo hạt (mặc dù hạt quả bần chí khi gieo có thể mọc mầm trên 90%). Chỉ cần nhổ những cây bần con mọc sắn trong tự nhiên (rất nhiều) để trồng.

Thành phần hóa học

+Trong thân:
-Vỏ thân và gỗ chứa archin (emodin), archinin (chrysophanic acid) và archicin. Trong quả có chất màu, archin và archicin.
-Vỏ thân chứa nhiều tanin (10-20%) có thể dùng thuộc da.
-Trong vỏ thân có chất Emodin và axit chrysophanic có thể làm các chất màu trong thực phẩm và thuốc thô (Perry, 1980).
-Gỗ bần xốp, tỷ lệ bột giấy thu hồi khoảng 52,7% (trong đó có 8,5% lignin, 17,6% pentosan có màu nâu).
-Ngoài ra trong gổ và vỏ thân cây bần có có hai chất archin (C15H10O5) và archinin (C15H14O12) có thể khai thác làm chất màu thực phẩm (CSIR,1976).
+Trong quả bần chín có:
-Có hàm lượng pectin 11% ở dạng chất trong suốt (ZMB).
-Có 2 chất  flavonoïdes chống oxy hóa được phân lập là :lutéoline và lutéoline 7-O-glucoside.

Công dụng

a-Các bộ phận của cây bần được dùng làm rau:
-Lá non và búp hoa cây bần được dùng làm rau sống:
Nhiều nước trong vùng Đông Nam Á dùng lá, búp non của cây bần để làm rau ăn sống (do có vị chát nên ít được ưa chuộng), nên loại rau này chỉ được ăn trong những trường hợp bất đắc dĩ khi đang sống giữa rừng bần.
-Quả bần non (bần chát) và quả bần già (bần chua) đượng dùng làm rau:
Quả bần chát và bần chua được xắt mỏng để dùng làm rau ghém, dùng riêng hoặc trộn với các loại rau “tập tàn khác. Đặc biệt là ăn với mắm cá sặc, mắm cá linh, mắm ruốc…
-Quả bần chua và bần chín được dùng để ăn chơi:
Do có vị chua đầm nên trẻ con và cả người lớn rất thích ăn quả bần già (bần chua) và quả bần chín. Đặc biệt là quý cô thanh nữ và quý bà đang “ốm nghén” rất thích ăn bần với muối hạt.




Rau bần chua

Bần chua và mắm sống
-Quả bần chín được làm nước chấm:
Quả bần chín rục dầm trong đĩa nước mắm, sẽ có món nước mắm bần vừa ngon và vừa hấp dẫn, cách chế biến rất đơn giả, chỉ cầm dầm nát quả bần trong nước mắm, thêm gia vị như bột ngọt, ớt, đường… là xong.
-Quả bần chín được làm chất chua để nấu canh chua, nấu lẫu chua:
Dùng quả bần chín trụng trong nước sôi, lọc bỏ hạt, sẽ có chất chua để nấu canh chua, lẫu chua từ quả bần, ăn rất hấp dẫn.
-Quả bần chín được lên men làm giấm bần (Crabapple vinegar):
Ở Philippines nông dân ven biển dùng quả bần chí để lên men ủ thành một loại giấm chua từ qu3 bần (Crabapple vinegar) để dùng nấu ăn trong gia đình.
Nguồn: PHILIPPINE MEDICINAL PLANTS
-Quả bần chín được chế thành chất phụ gia Thực phẩm:
Một chất thạch trong suốt có thể được chế biến từ trái bần có chứa chất pectine để làm chất kết dính.
Nguồn: PHILIPPINE MEDICINAL PLANTS
b-Các bộ phận của cây bần được dùng làm thuốc:
Theo Đông y: Quả bần có vị chua của phó mát, tính mát; có tác dụng tiêu viêm, giảm đau. Lá có vị chát, có tác dụng cầm máu.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Người ta lấy quả chua ăn sống hay nấu canh cá. Cũng được sử dụng làm thuốc đắp vào chỗ viêm tấy vì bong gân.
Ở Ấn Độ, người ta dùng dịch quả lên men làm thuốc ngăn chặn của chứng xuất huyết.
Dùng lá giã ra, thêm tí muối, làm thuốc đắp tốt các vết thương đụng giập và vết thương nhẹ. (Perry, 1980).
Ở Malaixia, người ta giã lá lẫn với cơm làm thuốc đắp chữa bí tiểu tiện. (Perry, 1980).
Ở Miến Điện, người dân dùng trái bần nghiền nát thành thuốc dán hay bột nhảo đắp lên gọi là thuốc dán Đông Phương, trộn với muối, đắp lên những vết cắt và những vết bầm (ứ máu) tím. (Perry, 1980).
Ở Mả Lai, dùng bần chín để trị những ký sinh trùng trong ruột, giun, sán. Ăn bần chín để trị ho và dùng lá bần non nghiền nát để trị các bệnh thiếu máu giảm tiểu cầu (hématurie) và bệnh đậu mùa variole. (Perry, 1980).
Trái bần chín có thể dùng sống hay chín.
Nước ép bần lên men đã có thể dùng để cầm máu.
Đồng thời hoa bần đâm nát, vắt nước điều trị bệnh tiểu ra máu. (Perry, 1980).
Ở Philippines đã được ghi nhận là lá và quả bần non đâm nhuyễn có tính cầm máu, trị bong gân, chổ sưng, u enflures và ăn quả hay lá bần trừ được giun, sán.
Nguồn: PHILIPPINE MEDICINAL PLANTS
c-Các công dụng khác:
Cây Bần còn có những công dụng khác như rễ thở (bất) dùng làm nút chai. Gỗ bở chỉ dùng đóng đồ nhỏ, làm củi đun, làm bột giấy. Cành đã rụng lá dùng và chất chà nhử cá và làm củi đun.
Bột giấy chế biết từ gổ bần thích hợp trong việc chế biến loại giấy kraft.
Các nghiên cứu sinh khối rừng ngập mặn ở Philippines cho biết sản lượng khai thác trắng cây bần qua luân kỳ 10 năm được 157 tấn chất khô/ha, trong đó gổ bần chiếm 74,4 tấn/ha và sản lượng bột giấy thu hồi trên 30 tấn/ha.
Nghiên cứu rừng ngập mặn ở thái lan cho biết thu hoạch gổ bần từ cành tái sinh hàng năm có thể đạt 20 tấn gổ/ha/năm và tỷ bột giấy thu được trên 50%.
Thiết nghĩ ở Việt Nam nên nghiên cứu phát triển và thâm canh cây bần ở rừng ngập mặn và khai thác gổ bần tái sinh để làm bột giấy theo kinh nghiệm các nước khác ở Đông Nam Á!

Hình ảnh cây bần trong ca dao Nam Bộ

Nổi bật ở vùng đồng bằng châu thổ Cửu Long là sự có mặt của hình ảnh cây bần, một loại cây rất gần gũi với bà con Nam Bộ.
Bà con Nam bộ đã dành cho cây bần một tâm tình ưu ái. Trong các câu ca dao, họ mượn hình ảnh cây bần để thổ lộ tấm lòng của mình với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ đó tạo nên nhận thức thẩm mỹ khá mới lạ về loài cây này.
“Muốn ăn mắm sặc bần chua
Chờ mùa nước nổi ăn cho đã thèm”.
Xuất phát từ cái tên nghe quá đói khổ- “bần” mà người Nam bộ đã đặt câu đố về nó:
“Giống chi toàn là giống đực
Thiếu tứ bề cam cực chung thân ?”.
Từ kiếp bình sinh “thiếu tứ bề” ấy mà tác giả bình dân đã mượn trái bần để nói lên số phận hẩm hiu của người phụ nữ:
“Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tắp vào đâu?”.
Là thế đấy, cây bần mang số kiếp thật hẩm hiu, bị phũ phàng:
“Cây bần kia hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm”.
Nhiều lúc cây bần trở nên mạt hạn, tầm thường trong thể hiện của người bình dân:
“Cảm thương ô dước, bời lời
Cha sao mẹ sến, dựa nơi gốc bần”.
Cây bần còn là cái để người ta so sánh sự sang hèn:
“Không thương em hổng có cần
Trầm hương khó kiếm chớ đước bần thiếu chi”.
Tuy nhiên, người Nam bộ không chỉ nhìn cây bần dưới con mắt bi quan như thế. Bằng cái nhìn hào sảng và lối sống phóng khoáng, lạc quan, cây bần còn là điểm tựa cho tình yêu đôi lứa:
“Làm thơ anh dán đọt bần
Dán cho hai họ Nguyễn Trần gặp nhau”.
Hy vọng để rồi khi tình duyên bị ngăn trở, bần lại là nơi cha mẹ phạt vạ con cái:
“Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần.
Rũi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.”.
Cái tình của người dân Nam bộ là thế, yêu “xả láng”, đánh chết cũng thương. Cây bần còn là biểu vật của sự nhớ thương, là mật hiệu của tình yêu:
“Chiều chiều xuống bến ba lần
Trông em không thấy thấy bần xơ rơ”.
Hay
“Lẻ đôi em chịu lẻ đôi
Hoa tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ”.
Nhưng nhiều lúc những cô Hai, anh Sáu lại nghi ngại, đặt vấn đề về chuyện cưới xin:
“Neo ghe vô dựa gốc bần
Em thương anh nói vậy chớ biết mình đặng gần hay không”.
Hay khi đã không thành duyên nợ thì:
“Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi
Anh với em duyên nợ hết rồi
Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em”.
Không chỉ vu vơ trách móc thế thôi, với cách nói như tát nước, người Nam Bộ cũng mắng nhiếc:
“Mồ cha thằng đốn cây bần.
Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm”.
Nhưng đôi lúc cũng cảm thông:
“Bần gie đóm đậu sáng ngời
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên”.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươ...

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng...

Cơm nguội vàng hay còn gọi là cây sếu, phác, cơm nguội Trung Quốc - Celtis sinensis Pers.

Cơm nguội vàng  hay còn gọi là  cây sếu ,  phác ,  cơm nguội Trung Quốc  (tên khoa học:  Celtis sinensis  Pers., tiếng Trung:  朴树 ) là một loài thực vật thuộc  chi Cơm nguội ,  họ Gai dầu  ( Cannabaceae ). Phân loại khoa học Giới   ( regnum ) Plantae (không phân hạng) Angiospermae (không phân hạng) Eudicots Bộ   ( ordo ) Rosales Họ   ( familia ) Cannabaceae Chi   ( genus ) Celtis Loài   ( species ) C. sinensis Danh pháp hai phần Celtis sinensis Pers. Các danh pháp đồng nghĩa có:  Celtis bodinieri   H. Léveillé ;  C. bungeana  var.  pubipedicella   G. H. Wang ;  C. cercidifolia   C. K. Schneider ;  C. hunanensis   Handel-Mazzetti ;  C. labilis   C. K. Schneider ;  C. nervosa   Hemsley ;  C. tetrandra   Roxburgh  subsp.  sinensis   (Persoon) Y. C. Tang .