Chuyển đến nội dung chính

BỘ SƯU TẬP ẢNH GIUN THÔNG NOEL ĐẸP NHẤT.

Giun thông Noel có tên tiếng Anh là Christmas Tree, tên khoa học là Spirobranchus Giganteus.
Chúng sống ở những rạn san hô trong các vùng nước nhiệt đới khắp thế giới. Vẻ đẹp tự nhiên của chúng khó có gì sánh nổi và được nhiều người ưa thích.
Loài giun biển có màu sắc sáng sủa này được gắn vào san hô ở rạn san hô ở Bonaire.
Có dạng hình nón với hai bộ lông hình xoắn ốc tuyệt đẹp, loài sinh vật biển này được những người lặn biển và nuôi sinh vật biển đặt tên là Giun thông Noel. Các tua màu của nó dùng để bắt những sinh vật đi ngang qua và để hô hấp. Đa số những con giun này gắn vào hang của chúng, một cái lổ được khoang vào san hô sống.
Chúng có nhiều màu sắc, ví dụ loài này có màu vàng cam
Sự kết hợp màu sắc tuyệt đẹp giữa trắng và xanh.
Chúng cũng tụ tập thành nhóm với nhiều màu khác nhau, làm cho chúng trông hấp dẫn hơn và nhìn vui mắt.
Loài sinh vật sống ở rạn san hô nhiệt đới này lọc thức ăn từ nước biển xung quanh, hơi giống cò chân ngỗng biển.
Khi có dấu hiệu nguy hiểm dù là nhỏ nhất, chúng sẽ rút đầu vào trong thân ống. Ở đỉnh đầu có hai sợi râu “ ăng ten”. Hai sợi này có hai mục đích: bắt sinh vật phù su và có chức năng như mang, giúp cho chúng thở.
Loài sinh vật sống ở đáy biển này có khả năng thay đổi màu sắc, mặc dù người ta không nghĩ rằng chúng dùng khả năng này để ngụy trang. Sự tự vệ tự nhiên của chúng là tốc độ – như đã nói, chỉ một tín hiệu nhỏ nhất trong dòng nước cũng làm chúng trốn.
Loài này rất nhạy với các chuyển động, chúng sẽ rút ngay vào trong hang khi có tín hiệu nguy hiểm.
Loài giun kỳ lạ này không có xương sống. Giống như nhiều loài giun dạng hình ống tube khác, giun thông Noel có nhiều tơ.
Chúng đưa bộ lông tơ này ra khỏi hang để lấy ô xy từ môi trường nước xung quanh.
Chúng thuộc về họ Serpulidae.
Khi bị quấy rầy, giun thông Noel thụt vào trong ống trong san hô rất nhanh. Chúng sống trên bề mặt san hô. Chúng để cho san hô phát triển bao quanh và bọc chúng vào trong một cái ống để bảo vệ.
Chúng sống ở độ sâu tới 12 mét.
Chúng thường được bổ sung vào các bể nuôi cá cảnh. Vì chúng rất dễ chết nên chỉ những tay nuôi cá cảnh nhiều kinh nghiệm mới có khả năng chăm sóc.
Con này chỉ có kích thước hơn vài cm và sống ở độ sâu 12 mét dưới đáy biển.
Bức ảnh này chụp ở rạn Great Barrier.
Một số bức ảnh bổ sung dành tặng cho những người thích Giun thông Noel.
Đừng quên bổ sung một con sao biển vào những con giun thông Noel dưới nước để làm chúng đẹp và hấp dẫn hơn. Có hơn 1.800 loài sao biển với màu sắc, hình dạng và kích cỡ khác nhau.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng Pháp :  haricot vert , danh pháp khoa học Phaseolus vulgaris , là một giống  đ

Cơm nguội vàng hay còn gọi là cây sếu, phác, cơm nguội Trung Quốc - Celtis sinensis Pers.

Cơm nguội vàng  hay còn gọi là  cây sếu ,  phác ,  cơm nguội Trung Quốc  (tên khoa học:  Celtis sinensis  Pers., tiếng Trung:  朴树 ) là một loài thực vật thuộc  chi Cơm nguội ,  họ Gai dầu  ( Cannabaceae ). Phân loại khoa học Giới   ( regnum ) Plantae (không phân hạng) Angiospermae (không phân hạng) Eudicots Bộ   ( ordo ) Rosales Họ   ( familia ) Cannabaceae Chi   ( genus ) Celtis Loài   ( species ) C. sinensis Danh pháp hai phần Celtis sinensis Pers. Các danh pháp đồng nghĩa có:  Celtis bodinieri   H. Léveillé ;  C. bungeana  var.  pubipedicella   G. H. Wang ;  C. cercidifolia   C. K. Schneider ;  C. hunanensis   Handel-Mazzetti ;  C. labilis   C. K. Schneider ;  C. nervosa   Hemsley ;  C. tetrandra   Roxburgh  subsp.  sinensis   (Persoon) Y. C. Tang .