Chuyển đến nội dung chính

CỎ MỰC

CỎ MỰC có tên khoa học là Eclipta alba Hassk thuộc họ Cúc Asteraceae. Gọi là “mực” vì vò nát có nước chảy ra như mực đen. Gọi là “rau” vì mầm non của nó cũng được dùng như một loại rau. Do có màu đen nên cây rau này cũng được chú ý trong nhóm thức ăn, thuốc màu đen với nhiều triển vọng cho những công dụng quý như để chống lão hóa. Cỏ mực từ lâu có trong kho tàng Nam dược thần hiệu.
CỎ MỰC  tính lạnh, vị ngọt chua, không độc. Có tác dụng lương huyết (mát huyết) chỉ huyết, thanh can nhiệt, dưỡng thận âm, làm đen râu tóc. Chủ trị xuất huyết nội tạng (chảy máu dạ dày, ỉa đái ra máu, thổ huyết do lao, rong kinh) chữa kiết lỵ, viêm gan mạn, chấn thương sưng tấy lở loét mẩn ngứa (uống trong, rửa ngoài). Thần nông bản thảo nói: “Là thuốc cầm máu nổi tiếng…”. Đường bản thảo nói: “Rau mặc chủ huyết lỵ, người bị chảy máu dữ dội. Dùng nó đắp và bôi nước lên đầu tóc sẽ mọc lại nhanh chóng”. Điền nam bản thảo nói: “Rau mặc làm chắc răng, đen tóc chữa khỏi 9 loại trĩ”. Bản kinh cách đây 2.000 năm nói: “Máu chảy không cầm đắp rau mặc cầm ngay”. Kỵ dùng khi có âm hư không có nhiệt, tỳ vị hư hàn, ỉa chảy. Ngày nay được dùng nhiều trong điều trị sốt xuất huyết muỗi truyền, ung thư (cancer) và nhiều bệnh khác.
Đặc tính thực vật :
CỎ MỰC còn gọi là Cỏ nhọ nồi, thuộc loại thân thảo hằng niên, cao trung bình 0.2-0.4 m, có khi đến 0.8 m, mọc bò , hoặc có khi gần như thẳng đứng, có lông trắng cứng, thưa. Thân màu lục hay nâu nhạt hay hơi đỏ tía. Lá mọc đối, phiến lá dài và hẹp cở 2.5 cm x 1.2 cm. Mép lá nguyên hay có răng cưa cạn, hai mặt lá đều có lông. Hoa mầu trắng hợp thành đầu, mọc ở kẽ lá hay đầu cành, có hoa cái bên ngoài và hoa lưỡng tính ở giữa. Quả thuộc loại bế quả cụt đầu, có 3 cạnh màu đen dài chừng 3mm.
CỎ MỰC  chứa :
- Các glycosides triterpene và Saponins : 6 glycosides loại oleanane : Eclalbasaponins I-VI ( 2 chất mới ly trích được năm 2001 được tạm ghi là XI và XII) , Alpha và Beta-amyrin , Ecliptasaponin D Eclalbatin.
- Các Flavonoids và Isoflavonoids : Lá và đọt lá chứa Apigenin, Luteolin và các glucosides liên hệ. Toàn cây chứa các isoflavonoids như Wedelolactone, Desmethylwedelolactone, Isodemethylwedelolac tone, Strychnolactone
- Aldehyd loại terthienyl : Ecliptal ; L-terthienyl methanol; Wedelic acid.
- Sesquitepne lactone : Columbin.
- Các sterols như Sitosterol, Stigmasterol..
- Các acid hữu cơ như Ursolic acid, Oleanolic acid, Stearic acid, Lacceroic acid ; 3,4-dihydroxy benzoic acid; Protocateuic acid..
Một số bài thuốc dùng CỎ MỰC cầm máu từ xưa
CỎ MỰC chữa Chảy máu mũi đêm ngày không dứt: cỏ mực giã nát đắp giữa mỏ ác và trên trán là khỏi (Nam dược thần hiệu).
CỎ MỰC Chữa thổ huyết và chảy máu cam: dùng cỏ mực cả cành và lá tươi giã lấy nước, chế thêm nước tiểu (của nhi đồng thì tốt hơn) để uống.
CỎ MỰC chữa Ỉa ra máu: cỏ mực nướng trên miếng ngói sạch cho khô, tán bột. Mỗi lần dùng 2 chỉ (8g) với nước cơm (gia tàng kinh nghiêm phương).
CỎ MỰC chữa Đái ra máu: cỏ mực, mã đề 2 vị bằng nhau giã lấy nước ngày uống 3 chén lúc đói (Y học chân truyền). Cháo cỏ mực nấu cháo cỏ mực 100g với 3 lát gừng (cỏ mực lọc lấy 400ml nước nấu cháo).
CỎ MỰC chữa Trĩ ra máu: một nắm cỏ mực để nguyên rễ giã nhuyễn như bùn, cho vào 1 chén rượu nóng thành dịch đặc vừa uống trong, vừa đắp bã ngoài (Bảo thọ đường phương).
CỎ MỰC chữa Chảy máy dạ dày hành tá tràng: rau mặc 50g, bạch cập 25g, đại táo 4 quả, cam thảo 15g sắc uống, ngày 1 thang chia làm 2 lần.
CỎ MỰC chữa Vết đứt chém nhỏ chảy máu: một nắm cỏ mực sạch nhai vò hoặc giã nhuyễn đắp lên vết thương.
CỎ MỰC Chữa râu tóc bạc sớm:
Cao cỏ mực: cỏ mực với lượng tùy dùng, rửa sạch nấu cô đặc thành cao rồi cho nước gừng, mật ong với lượng vừa phải, cô lại lần nữa. Cho vào lọ khi dùng lấy 1 - 2 thìa canh hòa nước đun sôi còn ấm hoặc cho ít rượu gạo để uống. Ngày 2 lần cao này có tác dụng bổ can thận, ích tinh huyết.
Viên cỏ mực: cỏ mực 1 - 2kg cho vào nước ép lấy dịch đặc trộn với bột nữ trinh tử đã được chế sẵn như sau: nữ trinh tử 300 - 1.000g ngâm rượu 1 ngày, bóc vỏ, rang khô tán bột. Viên hoàn bằng mật ong. Mỗi lần uống 10g. Ngày uống 3 lần với rượu gạo hâm nóng. Hoàn này bổ can thận, xanh đen râu tóc, khỏi đau lưng gối. (Không nhầm Nữ trinh tử với Trinh nữ tử (hạt mắc cỡ, xấu hổ).
Ngoài 2 công thức đơn giản giới thiệu trên còn nhiều công thức kết hợp cỏ mực với nhiều vị khác như câu kỷ tử, thỏ ty tử, ngũ vị tử, bách tử nhân, hà thủ ô, quả dâu chín… cho nhiều tác dụng hơn.
CỎ MỰC Chữa di mộng tinh (do tâm thận nóng): cỏ mực sấy khô tán bột. Uống ngày 8g với nước cơm hoặc sắc cỏ mực để uống ngày 30g.
CỎ MỰC Chữa rong kinh: nếu nhẹ lấy cỏ mực tươi giã vắt lấy nước cốt uống hoặc cỏ mực khô sắc nước uống. Nếu huyết ra nhiều cần phối hợp thêm lá trắc bá diệp, hoặc cây huyết dụ…
CỎ MỰC chữa Trẻ tưa lưỡi: cỏ mực tươi 4g, lá hẹ tươi 2g giã nhuyễn lấy nước cốt hòa mật ong chấm lên lưỡi cách 2 giờ 1 lần.
CỎ MỰC chữa Trẻ hay cáu gắt, nổi khùng cắn cấu, đêm ngủ không yên (do tích trệ, khí nhiệt, can hỏa bốc): cỏ mực 20g (dưới 3 tuổi dùng 12g) thêm 2 - 3 quả táo mật. Nấu với 3 bát nước cho đến khi còn 1 bát. Chia 3 lần uống.
CỎ MỰC Chữa chóng mặt, hoa mắt do can thận âm hư tổn: dùng cỏ mực 15 gr, vị thuốc sinh địa 15 gr, đem sắc nước chia làm hai lần dùng hết trong ngày. Dùng liên tục 30 ngày. Để chữa râu tóc bạc sớm, tóc rụng người ta cũng dùng bài thuốc như trên.
CỎ MỰC Chữa ho ra máu: lấy 25 gr cỏ mực, 20 gr vị thuốc bạch cập, 10 gr a giao. Đem cỏ mực và bạch cập sắc lấy nước, cho ra chén, sau đó cho a giao vào trộn đều. Chia ra làm hai lần dùng hết trong ngày, dùng liên tục trong 7 ngày.
CỎ MỰC Phòng và chữa viêm da: lấy một nắm cỏ mực còn tươi đem rửa sạch, vò nát rồi sát lên chân và tay cho đến khi màu da chuyển sang tím đen nhạt.
CỎ MỰC Chữa sỏi thận, tiểu ra máu: dùng 25 gr cỏ mực, 15 gr xa tiền thảo, một ít đường trắng vừa đủ. Đem cỏ mực và xa tiền thảo sắc lấy nước. Khi uống rót nước thuốc ra chén, rồi cho thêm đường vào cho dễ uống. Dùng hết lượng trên trong ngày thay cho nước trà và dùng liên tục khoảng 20 ngày.
CỎ MỰC Hỗ trợ trong điều trị chứng giảm tiểu cầu máu: dùng 10 gr cỏ mực, 5 gr nhân sâm, một ít gạo tẻ, đường trắng vừa đủ. Nhân sâm cắt thành lát mỏng, hấp chín. Cỏ mực rửa sạch, sắc lấy nước để nấu cháo. Sau khi cháo chín, cho nhân sâm vào, thêm chút đường cho đủ ngọt. Dùng mỗi ngày 1 lần, ăn thay bữa điểm tâm, dùng liên tục trong khoảng 5 ngày.
CỎ MỰC Chữa viêm họng: 20g nhọ nồi, 20g  bồ công anh, 12g củ rẻ quạt, 16gkim ngân hoa, 16g cam thảo đất, sắc lấy nước uống. Mỗi ngày một thang.
CỎ MỰC Chữa sốt cao: 20g cây nhọ nồi, 20g sài đất, 20g củ sắn dây, 16g cây cối xay, 12gké đầu ngựa, 16g cam thảo đất, sắc lấy nước uống mỗi ngày một thang.
CỎ MỰC Chữa mề đay: Lấy cây nhọ nồi, rau diếp cá, lá xương sông, lá huyết dụ, lá khế, lá dưa chuột, lá nhài. Lá cải trời rồi giã nát, cho nước vào rồi vắt lấy nước uống. Bã còn lại dùng để xoa, đắp vào chỗ sưng.
CỎ MỰC Chữa sốt phát ban: Mỗi ngày sắc 60g nhọ nồi rồi lấy nước uống. Ngày 1 thang, chia 2 – 4 lần trong ngày.
CỎ MỰC Trong điều trị ung thư
Cỏ mực đã được dùng để chữa ung thư các loại (phối hợp với những vị khác): K dạ dày, K tử cung, K xương, K bạch huyết, K họng. Trong đó chữa K họng chỉ dùng một vị cỏ mực 50g vắt nước uống tươi hàng ngày hoặc sắc nước uống.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươ...

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng...

Cơm nguội vàng hay còn gọi là cây sếu, phác, cơm nguội Trung Quốc - Celtis sinensis Pers.

Cơm nguội vàng  hay còn gọi là  cây sếu ,  phác ,  cơm nguội Trung Quốc  (tên khoa học:  Celtis sinensis  Pers., tiếng Trung:  朴树 ) là một loài thực vật thuộc  chi Cơm nguội ,  họ Gai dầu  ( Cannabaceae ). Phân loại khoa học Giới   ( regnum ) Plantae (không phân hạng) Angiospermae (không phân hạng) Eudicots Bộ   ( ordo ) Rosales Họ   ( familia ) Cannabaceae Chi   ( genus ) Celtis Loài   ( species ) C. sinensis Danh pháp hai phần Celtis sinensis Pers. Các danh pháp đồng nghĩa có:  Celtis bodinieri   H. Léveillé ;  C. bungeana  var.  pubipedicella   G. H. Wang ;  C. cercidifolia   C. K. Schneider ;  C. hunanensis   Handel-Mazzetti ;  C. labilis   C. K. Schneider ;  C. nervosa   Hemsley ;  C. tetrandra   Roxburgh  subsp.  sinensis   (Persoon) Y. C. Tang .