Chuyển đến nội dung chính

Cây Lược vàng

Cây Lược vàng có tên khoa học là Callisia fragrans thuộc họ Thài lài (Commelinaceae), cây lược vàng còn có tên là (địa) lan vòi, lan rũ, cây bạch tuộc, trái lá phất dũ, giả khóm. Ở nước Nga, có các tên gọi như: ka-li-di-a thơm, sâm nhà, vệ nữ, bác sĩ gia đình.
Cây lược vàng ngoài tác dụng trồng làm cảnh, còn có nhiều công dụng trong y học.

Nguồn gốc

Theo tài liệu của Nga, cây có xuất xứ từ Nam Mỹ, được trồng làm cảnh trên thế giới đã hơn 100 năm.

Lược vàng,cây lược vàng,cay luoc vang,lan vòi,lan rũ,cây bạch tuộc,trái lá phất dũ,giả khóm,ka-li-di-a thơm,sâm nhà,vệ nữ,bác sĩ gia đình,Callisia fragrans,họ thài lài,Commelinaceae,cây làm thuốc,cây chữa bệnh
Cây lược vàng

Công dụng

Theo một số thông tin dân gian, cây lược vàng có nhiều công dụng chữa bệnh, trong đó có một số bệnh khó chữa. Đó là các chứng bệnh tim mạch, tăng huyết áp, thoái hóa đốt sống cổ, viêm đại tràng mạn tính, viêm gan, táo bón, chảy máu dạ dày, tiểu đường, mỡ máu, thấp khớp, chấn thương trầy xước, bầm tím, viêm họng, viêm mũi, viêm thận, đau răng, loét lợi, eczema, sỏi thận, tai biến mạch máu não, u xơ tuyến tiền liệt, ung thư, đau lưng, bỏng, say rượu... Tuy nhiên công dụng của cây lược vàng vẫn chưa được kiểm chứng một cách khoa học cụ thể, chủ yếu là thông tin dân gian truyền miệng.

Lược vàng,cây lược vàng,cay luoc vang,lan vòi,lan rũ,cây bạch tuộc,trái lá phất dũ,giả khóm,ka-li-di-a thơm,sâm nhà,vệ nữ,bác sĩ gia đình,Callisia fragrans,họ thài lài,Commelinaceae,cây làm thuốc,cây chữa bệnh
Cây lược vàng

Thận trọng

Cây lược vàng được truyền tụng là chữa khỏi nhiều bệnh một cách thần kỳ, nhưng nghiên cứu bước đầu của Viện Dược liệu cho thấy nó không giúp kháng khuẩn, chống viêm, thậm chí còn có độc Nếu ngâm rượu để uống thì không được uống nhiều chỉ uống khoảng 10 đến 20 ml mỗi lần vì nó là cây có chứa chất độc.

Lược vàng,cây lược vàng,cay luoc vang,lan vòi,lan rũ,cây bạch tuộc,trái lá phất dũ,giả khóm,ka-li-di-a thơm,sâm nhà,vệ nữ,bác sĩ gia đình,Callisia fragrans,họ thài lài,Commelinaceae,cây làm thuốc,cây chữa bệnh,tác dụng của cây lược vàng
Cây lược vàng

Nghiên cứu cơ bản

Từ những năm giữa thế kỷ 20, một số nhà khoa học Mỹ và Canada đã phát hiện: những loài cây thuộc họ Commelinaceae (trong đó có cây lược vàng), chứa nhiều loại hoạt chất sinh học, có khả năng kiềm chế sự phát triển của các khối u. Ở Nga, các nghiên cứu về thành phần hóa học và tác dụng dược lý của lược vàng được tiến hành tại Đại học Y khoa thành phố Irkyt, từ những năm 80, thế kỷ trước, dưới sự chỉ đạo của GS. Semenov, một nhà khoa học rất nổi tiếng. Kết quả nghiên cứu nhiều năm ở Irkyt cho thấy: Trong cây lược vàng có một số hoạt chất sinh học thuộc nhóm flavonoid và steroid thực vật. Ngoài ra, trong cây còn có sắt, đồng, crôm... những nguyên tố có tác dụng quan trọng đối với hoạt động sống của cơ thể. Hai chất thuộc nhóm flavonoid được phát hiện là: kvercitin và kempferol. Lvercitin có hoạt tính giống như vitamin P và là chất chống ôxy hóa, có tác dụng lợi tiểu và chống co giật. Có thể sử dụng trong điều trị dị ứng, chảy máu nội tạng, viêm thận, viêm khớp, cũng như một số bệnh tim mạch, mắt và nhiễm trùng, Kempferol có tác dụng làm tăng độ bền của mạch máu, an thần, chống viêm, lợi tiểu mạnh – giúp cơ thể bài tiết các chất độc hại ra ngoài. Có thể sử dụng để chữa trị các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh dị ứng, rối loạn chức năng bài tiết nước tiểu. Các steroid có trong thực vật được gọi là các fitosterol. Chúng có hoạt tính tương tự nội tiết tố sinh dục, còn có tác dụng diệt khuẩn, chống xơ vữa động mạch và kiềm chế sự phát triển của các khối u. Có thể ứng dụng trong điều trị một số dạng ung thư, cũng như các bệnh tuyến tiền liệt, bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa.

Tuy nhiên, cùng với những tác dụng có lợi nói trên, các nhà khoa học Nga còn nhận thấy, lược vàng cũng là vị thuốc dễ gây tác dụng phụ, như gây tổn thương thanh quản, dị ứng nổi ban đỏ, phù nề tứ chi, phù toàn thân... Các phản ứng phụ đó hay gặp nhất ở những người có khả năng miễn dịch yếu và có cơ địa dị ứng. Chính những nhược điểm đó đã hạn chế việc mở rộng ứng dụng lược vàng trên lâm sàng. Quan điểm y học cho rằng: chỉ có thể sử dụng lược vàng để chữa bệnh sau khi được chuyên gia tư vấn. Có thể cũng vì vậy, trong các sách về y học dân gian Nga, các sách tra cứu hay các từ điển lớn về thảo dược ở Nga, xuất bản trong thời Liên Xô cũ đều không thấy đề cập đến vị thuốc này.

Lược vàng,cây lược vàng,cay luoc vang,lan vòi,lan rũ,cây bạch tuộc,trái lá phất dũ,giả khóm,ka-li-di-a thơm,sâm nhà,vệ nữ,bác sĩ gia đình,Callisia fragrans,họ thài lài,Commelinaceae,cây làm thuốc,cây chữa bệnh
Cây lược vàng

Ứng dụng thực tế

Trong khi giới khoa học ở Nga còn đang do dự, thì lược vàng đã được các thầy thuốc thực hành sử dụng rộng rãi. Trên lâm sàng, lược vàng được sử dụng chữa các bệnh dạ dày – ruột, bệnh túi mật, lá lách; các bệnh đường hô hấp như ho, viêm họng, viêm phế quản, hen phế quản; các bệnh đường tiết niệu; các bệnh ngoài da như viêm da, zona, chàm... Thuốc chế từ "lược vàng" có tác dụng giảm đau, chống nóng rát, giúp vết thương chóng lành... Ngoài ra, còn có tác dụng nhất định đối với ung thư, chống nghiện rượu và nghiện thuốc lá.

Tại Nga, cây lược vàng hiện đang được ứng dụng rất rộng rãi. Do đó nếu lên mạng, vào một website tìm kiếm thông tin nào đó, gõ từ "dôlôtôi us" bằng tiếng Nga, bạn sẽ tìm thấy hàng chục tên sách và hàng trăm bài báo có nội dung liên quan tới vị thuốc này. Trong số các bộ sách, có một cuốn có số lượng phát hành rất lớn như "Lược vàng – Những đơn thuốc tốt nhất" của S.Anastasia; sách tra cứu "Lược vàng – từ A đến Z – những đơn thuốc thần kỳ", "Lược vàng trong chữa trị căn bệnh thế kỷ" của V.Ogarkov; "Lược vàng và sex", "Lược vàng – tất cả những điều đã biết và chưa biết" của A.Korzinova... Phần lớn các sách về lược vàng ở Nga đều do các thầy thuốc chuyên nghiệp, có bằng cấp, học vị đàng hoàng chắp bút. Trong số đó, cuốn "Thần thoại và sự thật về cây lược vàng" của GS. I.P.Neumưvakin... được xem như cuốn sách đầy đủ và khách quan nhất. Cùng với sách báo, các loại thuốc chữa bệnh, thực phẩm chức năng, với lược vàng là dược liệu chính, cũng đang xuất hiện ngày càng nhiều.

Một điều cần nhấn mạnh là, tuy các thầy thuốc lâm sàng ở Nga coi lược vàng là một vị thuốc quý, nhưng họ không coi đó là "thần dược". Thí dụ, tại địa chỉ www.callisia.org, chuyên giới thiệu về cách sử dụng lược vàng để chữa bệnh, các chuyên gia cũng đã cảnh báo (dịch nguyên văn):

"Cần nhớ rằng, trên đời không tồn tại loại thuốc vạn năng và không có một phương tiện y học hiện đại hay y học dân gian nào có khả năng chữa khỏi tất cả các loại bệnh. Do đó, đối với các đơn thuốc dân gian, cần có một thái độ thận trọng; chỉ có thể chỉ định cho bệnh nhân một loại thảo dược nào đó, kể cả lược vàng, sau khi tư vấn với bác sĩ điều trị.

Bản thân các thầy thuốc dân gian, những người đang ứng dụng và xây dựng các đơn thuốc từ cây lược vàng cũng nhận định: lược vàng không phải là phương tiện vạn năng. Tác dụng chữa bệnh của nó vẫn còn đang được tiến hành nghiên cứu. Vì vậy chưa có gì bảo đảm là lược vàng có thể chữa khỏi được hoàn toàn một bệnh nào đó".

Cần thận trọng khi dùng lược vàng

Từ những thông tin về việc sử dụng lược vàng trong chữa bệnh ở Nga và những trường hợp chữa khỏi bệnh nhờ cây lược vàng mà một số tờ báo ở nước ta đã đăng tải, sơ bộ có thể nhận thấy: theo quan điểm của Đông y, lược vàng là thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, nhuận phế, tiêu viêm, hóa đàm, lợi thủy. Có thể sử dụng để chữa ho, viêm họng, sốt, viêm nhiễm tiêu hóa và tiết niệu; dùng ngoài giã đắp chữa trị vết thương, viêm nhiễm ngoài da. Tóm lại, tạm thời có thể xếp lược vàng vào loại "thuốc thanh nhiệt" của Đông y.

Trong Đông y "thuốc thanh nhiệt" là loại thuốc được sử dụng nhiều nhất, do có tác dụng điều hòa và nâng cao sức chống bệnh của cơ thể; đối với nhiều loại bệnh nhiễm khuẩn, thậm chí nhiễm virut, thuốc thanh nhiệt có tác dụng điều trị trực tiếp, hoặc hỗ trợ rất tốt. Tuy nhiên, nếu sử dụng lâu dài, quá liều lượng hoặc không đúng bệnh, cũng có thể gây nên những tác dụng ngoài sự mong muốn, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ và người cao tuổi.

Những năm gần đây, các chuyên gia Đông dược đã nhiều lần cảnh báo và mô tả khá tỉ mỉ những trạng thái bệnh lý, do lạm dụng các thuốc thanh nhiệt gây nên. Những bệnh lý đó, cũng được xếp loại vào nhóm "các biến chứng do thuốc". Cụ thể, thuốc thanh nhiệt có thể dẫn tới 2 bệnh lý:

Thứ nhất là chứng hậu (hội chứng) được Đông y gọi là "hao khí tổn dương" với những biểu hiện chủ yếu: Mệt mỏi, đầu choáng, mắt hoa, hoạt động mạnh một chút là đã vã mồ hôi, thở gấp, hụt hơi, buồn ngủ, tinh thần thiếu tập trung, khả năng tư duy giảm sút, chán ăn, đau bụng, tiêu chảy...

Thứ hai là chứng hậu "thương âm hao dịch" với những biểu hiện chủ yếu: sáng thức dậy có cảm giác mệt mỏi, đầu choáng váng quay cuồng, mắt đỏ, bất chợt thấy tai ù; nằm ngủ thường ra mồ hôi trộm nhất là lúc vừa thiếp đi; miệng háo thích uống nước mát, tính tình biến đổi dị thường, hay cáu giận một cách vô cớ, ăn uống giảm sút, đại tiện táo, nước tiểu sẻn đỏ...

Các triệu chứng kể trên không phải lúc nào cũng xuất hiện tất cả. Trên thực tế, tác dụng phụ của thuốc thanh nhiệt thường không rõ ràng, không điển hình, nên rất dễ bị người dùng bỏ qua. Vì vậy, khi sử dụng thuốc thanh nhiệt liều cao hoặc dùng lâu ngày, cần đặc biệt chú ý theo dõi, nếu thấy có những biến đổi khác thường về sinh lý cũng như tâm lý, cần dừng ngay thuốc.

Khi dùng cây lược vàng để chữa bệnh, cũng cần chú ý tới những tác dụng phụ - "các biến chứng do thuốc", như khi sử dụng thuốc thanh nhiệt.

Thực ra, những tác dụng như thanh nhiệt, giải độc, sát khuẩn làm lành vết thương ... không phải là những tác dụng "đặc hữu" - chỉ có ở cây lược vàng, những tác dụng đó, cũng có ở rất nhiều vị thuốc Nam quen thuộc khác. Lược vàng, nhiều khả năng cũng là một cây thuốc quý, tuy nhiên cũng không nên "sùng bái" quá mức.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng Pháp :  haricot vert , danh pháp khoa học Phaseolus vulgaris , là một giống  đ

Cơm nguội vàng hay còn gọi là cây sếu, phác, cơm nguội Trung Quốc - Celtis sinensis Pers.

Cơm nguội vàng  hay còn gọi là  cây sếu ,  phác ,  cơm nguội Trung Quốc  (tên khoa học:  Celtis sinensis  Pers., tiếng Trung:  朴树 ) là một loài thực vật thuộc  chi Cơm nguội ,  họ Gai dầu  ( Cannabaceae ). Phân loại khoa học Giới   ( regnum ) Plantae (không phân hạng) Angiospermae (không phân hạng) Eudicots Bộ   ( ordo ) Rosales Họ   ( familia ) Cannabaceae Chi   ( genus ) Celtis Loài   ( species ) C. sinensis Danh pháp hai phần Celtis sinensis Pers. Các danh pháp đồng nghĩa có:  Celtis bodinieri   H. Léveillé ;  C. bungeana  var.  pubipedicella   G. H. Wang ;  C. cercidifolia   C. K. Schneider ;  C. hunanensis   Handel-Mazzetti ;  C. labilis   C. K. Schneider ;  C. nervosa   Hemsley ;  C. tetrandra   Roxburgh  subsp.  sinensis   (Persoon) Y. C. Tang .