Chuyển đến nội dung chính

Hương dó bầu xứ Quảng… bay tận trời Á, Phi!


Sự ra đời của cơ sở chế biến tinh dầu từ nguyên liệu cây dó bầu của Cơ sở sản xuất, chế biến dầu trầm của chị Nguyễn Thị Ngọc (ở khối 7 thị trấn Núi Thành, huyện Núi Thành, Quảng Nam) mỗi năm góp phần tiêu thụ hàng triệu cây dó của vùng đất Quảng Nam.
 Vườn ươm cây dó bầu của Cơ sở chị Hồng Ngọc
Vườn ươm cây dó bầu của Cơ sở chị Hồng Ngọc.
Theo lời chị Ngọc, doanh nghiệp Hồng Ngọc sẽ ký hợp đồng với nông dân trồng dó; cây đến tuổi khai thác, sẽ mua với giá 10.000 đồng/kg. Chị là người mở lối cho một làng nghề thủ công mới đầy tiềm năng trên đất Quảng.
Không dừng lại ở “sân chơi nhà”, chị Ngọc mở rộng đặt hàng với nông dân Hà Tĩnh để bao tiêu toàn bộ cây dó. Hiện, chị đang sở hữu hàng chục hecta dó 1-2 tuổi và một làng nghề chế biến tinh dầu trầm giá trị hàng tỷ đồng.
Chị Ngọc kể rằng, những năm 70 của thế kỷ trước, miền núi Tam Sơn của huyện Núi Thành heo hút, cách trở. Cây dó thời đó chưa có giá, không ít người phải chặt làm củi, thậm chí người tạo được trầm cũng không nhiều.
Cũng thời điểm này, huyện Trà My (cũ), người dân bắt đầu phất lên bằng nghề trầm hương. Chị Ngọc dành dụm một ít vốn, đón xe ngược lên vùng cao Quảng Nam với những chuyến buôn lẻ đầu tiên. Chưa quen địa bàn, vốn lại ít, chị chỉ buôn bán lẻ tẻ để mưu sinh. Rồi nghe phong thanh ở trong Phú Khánh, người ta đã chiết xuất thành công tinh dầu từ dó trầm, chị Ngọc quyết định khăn gói vào học nghề. Hành trang mang theo là ba cây dó bầu mà chị mua với giá 2 triệu đồng. “Đến khi ngồi lên xe, mình mới giật mình, vì trong ví chỉ vừa đủ tiền cho hai chuyến xe đi - về. May nhờ người quen giúp đỡ, chỉ lối, mình đã học nhiều kinh nghiệm quý về chiết xuất tinh dầu cây dó ở nơi đất khách”- chị Ngọc nhớ lại. Từ buôn lẻ cây dó để đắp đổi bữa ăn qua ngày, chị đã biến nó thành một loại cây mang lại giá trị kinh tế cao, đồng thời ươm mầm cho một làng nghề thủ công.
Năm 2005, chị Ngọc xây dựng cơ sở chế biến tinh dầu dó trầm với 60 nồi chưng cất, đầu tư hơn 3,5 tỷ đồng. Thân cây dó ngoài việc chế tác các sản phẩm mỹ nghệ cao cấp còn dùng tinh chiết thành dầu. Toàn bộ quy trình nấu, chiết xuất đều thực hiện thủ công.
Theo chị Ngọc thì, khoảng 2-3 tấn dó đưa vào nấu sẽ cho ra khoảng 1 lít dầu. 1 lít dầu hiện nay có giá dao động 8.000-10.000 USD. Tinh dầu dó trầm Doanh nghiệp Hồng Ngọc dần được giới kinh doanh nghe tiếng, tìm đến. Tiếng lành đồn xa, nhiều khách hàng ở Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Ai Cập… liên tiếp đặt hàng, nhiều lúc sản xuất không kịp bán. Để không bị động trong khâu tìm kiếm nguyên liệu, năm 2005, chị Ngọc đã ký nhiều hợp đồng với các đối tác ở Hà Tĩnh. Chẳng hạn như, thỏa thuận với Công ty Vạn Thành, thị trấn Hương Sơn, cấy tạo trầm 10.000 cây dó (5ha); hợp đồng với Công ty Cao su Hà Tĩnh nhận cấy 15.000 cây dó (20ha) và hiện Doanh nghiệp Hồng Ngọc đang tận thu khai thác dó. Chị Ngọc tự tin nói: “Không còn nghi ngờ về hiệu quả kinh tế mà cây dó bầu đem lại. Giá trị cao gấp nhiều lần so với các cây nguyên liệu khác như bạch đàn, keo lá tràm… Người dân cứ mạnh dạn trồng, tốt hơn nên liên kết các nhóm hộ để trồng. Doanh nghiệp sẽ ký hợp đồng tạo trầm, đến tuổi khai thác sẽ mua 10.000 đồng/kg”. Thử làm một phép tính đơn giản: bình quân 1ha trồng 2.500 cây dó, sau 7 năm thu hoạch, cây còi cọc nhất cũng cho 100 ký, tương đương 1 triệu đồng, 1ha tối thiểu thu 2,5 tỷ đồng.
Không chỉ làm ăn trong nước, gần đây, cơ sở Hồng Ngọc còn đến tận bản Nỏng Bua, huyện Phôn Hông (Viêng Chăn - Lào) để cấy tạo trầm 10.000 cây dó (trị giá 250.000 USD) cho Công ty Phát triển lâm sinh. Ăn nên làm ra, chị tiếp tục mở rộng cơ sở kinh doanh, hợp đồng với nhiều hộ nông dân trồng dó. Doanh nghiệp Hồng Ngọc đặt mua toàn bộ dầu chế biến thô, cũng như các dăm gỗ từ cây dó ở làng nghề mỹ nghệ trầm hương Trung Phước, xã Quế Trung. Ngoài ra, cơ sở này còn giải quyết cho 40-50 lao động tại địa phương, bình quân thu nhập mỗi tháng 1,6 triệu đồng/người.
Theo chị Ngọc, Quảng Nam đất rộng, có đầy đủ điều kiện tự nhiên để phát triển mạnh cây dó bầu. Vùng cao cần trồng loại cây này. Nếu tỉnh có tầm nhìn xa, sẽ giải quyết được bài toán hóc búa nên trồng cây gì. Vấn đề ở chỗ, nông dân cần liên kết các nhóm hộ lại với nhau, nhằm tránh tình trạng trồng manh mún, theo kiểu mạnh ai nấy làm.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phân biệt : khoai nước- khoai sọ - dọc mùng - môn bạc hà - Ráy voi....

KHOAI NƯỚC Khoai nước, Môn nước - Colocasia esculenta Schott,  Chi Colocasia - Khoai nước, Khoai môn,  Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh,  bộ Alismatales Trạch tả Mô tả:  Khoai nước và Khoai sọ cùng loài nhưng khác thứ: +   Khoai nước - Colocasia esacuenta Schott  trồng nước + Khoai sọ - Colocasia esacuenta  var.  antiquorum  trồng khô.  Cây thảo mọc hoang và được trồng, có củ ở gốc thân hình khối tròn. Lá có cuống cao đến 0,8m; phiến dạng tim, màu lục sẫm nhiều hay ít, tím hay nâu tuỳ giống trồng, gân nổi rõ. Mo vàng có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu nhiều noãn. Quả mọng vàng khi chín to 3-4mm. Nơi mọc:   Loài được trồng nhiều ở nước ta và các xứ nhiệt đới để lấy củ ăn. Công dụng:  Ta thường dùng củ nấu ăn với xôi hay nấu chè, làm bánh. Cuống lá cũng thường dùng làm rau ăn nhưng phải xát hoặc ngâm với muối để khỏi ngứa. Cũng dùng muối dưa ăn. Củ tươi giã nhỏ dùng đắp trị mụn nhọt có mủ. Dùng ngoài giã nhỏ t

Tổng hợp các loại đậu

Các loại quả đậu ăn cả vỏ lẫn ruột khi chưa chín Đậu rồng – Đậu khế – Đậu xương rồng – Đậu cánh – Winged bean – Winged pea – Goa bean – Asparagus pea – Four-angled bean. Đậu rồng  còn gọi là đậu khế hay đậu xương rồng, đậu cánh (danh pháp hai phần: Psophocarpus tetragonolobus) là một loài cây thuộc họ Đậu (Fabaceae)  Đậu que – Green bean – String bean – Snap bean. Đậu que   là một tên gọi thường dùng ở Việt Nam để chỉ các loại đậu có dạng quả có đặc điểm dài và ốm, như: Đậu đũa , tên khoa học  Vigna unguiculata sesquipedalis , một loại đậu thuộc  chi Đậu  ( Vigna ),  họ Đậu . Đậu cô ve , tên khoa học  Phaseolus vulgaris , một loại đậu thuộc  chi Đậu cô ve  ( Phaseolus ),  họ Đậu . Đậu cô ve – Đậu a ri cô ve – French beans, French green beans, French filet bean (english) – Haricots verts (french): được trồng ở Đà Lạt. Đậu que ,  đậu ve  hay  đậu cô ve , còn gọi là: đậu a ri cô ve do biến âm từ  tiếng Pháp :  haricot vert , danh pháp khoa học Phaseolus vulgaris , là một giống  đ

Cơm nguội vàng hay còn gọi là cây sếu, phác, cơm nguội Trung Quốc - Celtis sinensis Pers.

Cơm nguội vàng  hay còn gọi là  cây sếu ,  phác ,  cơm nguội Trung Quốc  (tên khoa học:  Celtis sinensis  Pers., tiếng Trung:  朴树 ) là một loài thực vật thuộc  chi Cơm nguội ,  họ Gai dầu  ( Cannabaceae ). Phân loại khoa học Giới   ( regnum ) Plantae (không phân hạng) Angiospermae (không phân hạng) Eudicots Bộ   ( ordo ) Rosales Họ   ( familia ) Cannabaceae Chi   ( genus ) Celtis Loài   ( species ) C. sinensis Danh pháp hai phần Celtis sinensis Pers. Các danh pháp đồng nghĩa có:  Celtis bodinieri   H. Léveillé ;  C. bungeana  var.  pubipedicella   G. H. Wang ;  C. cercidifolia   C. K. Schneider ;  C. hunanensis   Handel-Mazzetti ;  C. labilis   C. K. Schneider ;  C. nervosa   Hemsley ;  C. tetrandra   Roxburgh  subsp.  sinensis   (Persoon) Y. C. Tang .